
Giải pháp và ứng dụng Công Nghệ Thông Tin - Kinh nghiệm của Nhật Bản
Phổ cập Tin học ở Nhật Bản
Nhật Bản , như tất cả các quốc gia , hiểu rằng Công Nghệ Thông Tin ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển và sức cạnh tranh của đất nước trong nền kinh tế toàn cầu. Do vậy, việc phổ cập Tin học nói riêng và cải cách giáo dục nói chung được đặc biệt quan tâm.
Định hướng chung
Việc phổ cập Tin học tại Nhật Bản gồm các giai đoạn như sau :
- Lãnh đạo trong ngành giáo dục đào tạo phải có nhận thức về tầm quan trọng của Công Nghệ Thông Tin , có kiến thức về ứng dụng Công Nghệ Thông Tin.
- Giáo viên phổ thông phải được đào tạo để có khả năng ứng dụng Công Nghệ Thông Tin , giảng dạy Tin học trong nhà trường.
- Máy tính được thiết lập và nối mạng trong các trường Phổ Thông.
- Xây dựng các phần mềm giảng dạy và học tập.
- Đưa Tin học thành một môn học chính thức trong chương trình Phổ Thông .
Hơn nữa, chính phủ Nhật Bản cũng nhận thấy việc phổ cập Tin học nhà trường là một bước trong chương trình cải cách giáo dục đào tạo quốc gia. Phổ cập Tin Học phải song song với ứng dụng tin học để thay đổi, nâng cao phương pháp giảng dạy, cách thức quản lý trong hệ thống giáo dục đào tạo.
Cách thức thực hiện
Bộ giáo dục đào tạo kết hợp với Bộ Bưu Chính Viễn Thông , Bộ Ngoại Thương và Công Nghiệp để thực hiện việc phổ cập Tin học. Bộ giáo dục đào tạo xây dựng và công bố các tiêu chuẩn của chương trình giảng dạy Phổ Thông trên toàn quốc năm 1998. Theo đó, tin học trở thành môn học chính thức trong chương trình giảng dạy Phổ Thông từ năm 2002 đối với bậc tiểu học và trung học cơ sở , từ năm 2003 đối với bậc trung học Phổ Thông ( ở Nhật Bản, tiểu học là 6 năm, trung học cơ sở 3 năm, và trung học Phổ Thông 3 năm ).
Từ 1998 đến năm 2000, Bộ Bưu Chính Viễn Thông Nhật Bản kết hợp với Bộ giáo dục đào tạo xây dựng, kiểm tra, đảm bảo việc kết nối hệ thống mạng tốc độ cao giữa các trường học ( 1076 trường ). Tổng chi phí cho dự án này là 250 triệu USD. Tiếp theo Bộ Bưu Chính Viễn Thông xây dựng đề án hỗ trợ, giảm chi phí kết nối Internet cho các trường Phổ Thông từ năm 1999.
Bộ Ngoại Thương và Công Nghiệp Nhật Bản hợp tác chặt chẽ với Bộ giáo dục đào tạo để xây dựng các dự án, chương trình đưa máy tính và mạng máy tính vào trường học, tạo môi trường giáo dục đào tạo có sự hỗ trợ của Công Nghệ Thông Tin. Từ 1994, khi mạng máy tính và Internet còn rất mới mẻ trên thế giới, dự án kết nối mạng 100 trường học ( 100 - School Networking Project ) đã được triển khai để kết nối, trao đổi thông tin giữa các trường học và kết nối trường với mạng Internet. Dự án này kéo dài từ 1994 - 1998, mỗi năm được cấp 2,5 triệu USD, đóng vai trò như chương trình thí điểm phổ cập Tin học toàn quốc sau này. Dự án cũng xây dựng các ứng dụng Công Nghệ Thông Tin hỗ trợ giảng dạy và học tập trong trường.
Tiếp theo đó, chương trình xúc tiến, đẩy mạnh ứng dụng Công Nghệ Thông Tin trong giáo dục đào tạo được thực hiện từ 1998 - 1999 với các hoạt động như đào tạo Công Nghệ Thông Tin cho Giáo viên Phổ Thông, xây dựng các hệ thống thông tin phân tán phục vụ giáo dục đào tạo. Chương trình này gồm 63 dự án có tổng chi phí 100 triệu USD. Trong khuôn khổ các dự án, kỹ sư hệ thống Công Nghệ Thông Tin của các công ty Công Nghệ Thông Tin được gửi đến các trường để tham gia, cộng tác xây dựng, quản lý hệ thống mạng máy tính.
Dựa trên kinh nghiệm từ dự án kết nối mạng 100 trường học, dự án E-square ( e2 – educational electronic ) được triển khai từ năm 1999 với kinh phí 2,5 triệu/ năm. Mục tiêu đặt ra là hoàn thành hệ thống mạng máy tính và kết nối Internet các trường Phổ Thông trên toàn quốc, hoàn thiện cơ sở hạ tầng Công Nghệ Thông Tin, hệ thống phần mềm giáo dục đào tạo, các phương pháp giảng dạy có sự hỗ trợ của Công Nghệ Thông Tin... để đưa Tin Học thành môn học chính thức trong nhà trường từ năm 2002.
Bắt đầu từ năm 2000, một chương trình đào tạo kéo dài trong 3 năm được triển khai trên toàn quốc với mục đích cung cấp kiến thức Công Nghệ Thông Tin cho toàn bộ Giáo viên Phổ Thông, giúp Giáo viên có khả năng ứng dụng Công Nghệ Thông Tin vào giáo dục đào tạo, hơn nữa, có khả năng giảng dạy môn Tin học trong nhà trường. Cũng trong thời gian này, giảng dạy Tin học được thí điểm ở một số trường Phổ Thông . Song song với đào tạo Giáo viên, việc xây dựng và cung cấp các văn bản hướng dẫn, sách giáo khoa Tin học và các thông tin liên quan đến việc giảng dạy Tin học ở các trường Phổ Thông cũng được tiến hành. Tiếp đó là xây dựng phần mềm cho giáo dục đào tạo và thư viện phần mềm giáo dục đào tạo tại các trung tâm giáo dục đào tạo.
Thay cho lời kết
Phổ cập Tin học ở Nhật Bản bắt đầu từ năm 1994 và phải trải qua một thời gian dài chuẩn bị - thí điểm, tận đến năm 2002 mới được tiến hành đồng loạt ở các trường Phổ Thông trên toàn quốc. Mục tiêu cuối cùng đã đạt được là đưa tin học thành môn chính thức trong chương trình Phổ Thông và máy tính được lắp đặt - nối mạng ở tất cả các trường Phổ Thông. Theo thống kê năm 2005 của Bộ giáo dục đào tạo – Văn Hoá – Thể Thao – Khoa Học – Công Nghệ Nhật Bản, số máy tính trung bình ở các trường tiểu học là 30,8 ở các trường trung học cơ sở là 46,5 và ở các trường trung học Phổ Thông là 107,6 máy. Tỉ lệ trung bình Giáo viên tiểu học có thể sử dụng máy tính, ứng dụng Công Nghệ Thông Tin là 95,3%, Giáo viên trung học cơ sở là 94,7%, và Giáo viên trung học Phổ Thông là 95,4%. Tỉ lệ trung bình Giáo viên tiểu học có thể giảng dạy, hướng dẫn sử dụng máy tính cho học sinh là 80,1%, Giáo viên trung học cơ sở là 60,5%, và Giáo viên trung học Phổ Thông là 55,1%.
Bài viết có sử dụng các số liệu từ Bộ Giáo Dục – Văn Hóa - Thể Thao – Khoa Học Công Nghệ Nhật Bản ( http://www.mext.go.jp ); Bộ Kinh Tế - Thương Mại – Công Nghiệp ( http://www.meti.go.jp ); Bộ Nội Vụ và Truyền Thông ( http://www.soumu.go.jp ); Trung Tâm Giáo Dục Tin Học Nhật Bản ( http://www.cec.or.jp ).
3 mục tiêu phổ cập Tin học của chính phủ Nhật Bản
1. Nâng cao khả năng sử dụng máy tính - mạng máy tính - Internet, ứng dụng Công Nghệ Thông Tin - Truyền Thông cho mọi học sinh Phổ Thông.
2. Ứng dụng Công Nghệ Thông Tin - Truyền Thông để xây dựng, phát triển các phương pháp giảng dạy mới trực quan, sinh động, dễ hiểu hơn cho học sinh, nâng cao chất lượng giảng dạy - học tập.
3. Nâng cao khả năng trao đổi thông tin – liên lạc giữa người dân địa phương, gia đình và nhà trường thông qua hệ thống mạng thông tin máy tính và Internet.
Để phổ cập Tin học, thời gian và kinh phí cho đào tạo Giáo viên , trang bị máy tính, mạng máy tính có kết nối Internet, xây dựng phần mềm giáo dục đào tạo của Chính Phủ Nhật Bản là không nhỏ. Trong bối cảnh nền kinh tế tri thức toàn cầu hiện nay, chắc chắn việc phổ cập Tin học thành công đã đóng góp rất nhiều không chỉ cho nền giáo dục đào tạo Nhật Bản mà còn cho sức cạnh tranh của nền kinh tế Nhật Bản - nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới.
Bùi Quang Hưng
Nguyên tắc đào tạo ngành Khoa Học Máy Tính ( Computer Engineering ) ở Mỹ
Nhiều công ty công nghệ máy tính than phiền sinh viên tốt nghiệp đại học chưa được trang bị đủ tri thức để đáp ứng được ngay với yêu cầu của thị trường việc. Đây không phải là vấn đề riêng của các ngành Khoa Học Máy Tính ( Computer Engineering ) hay Công Nghệ Thông Tin ( Information Technology ) và càng không phải là vấn đề riêng của Việt Nam.
Các tạp chí chuyên ngành ở Mỹ và các nước khác cũng thỉnh thoảng có bài phàn nàn về việc sinh viên mới ra trường thiếu các mảng kiến thức cần thiết.Trong bài này, tôi xin chia sẻ vài thu thập cá nhân về phương pháp thiết kế chương trình ngành Khoa Học Máy Tính ở Mỹ, và chỉ giới hạn trong phạm vi chương trình đại học.
Các nguyên tắc chung
Chương trình đào tạo cử nhân có khả năng thích ứng được với thay đổi vũ bão của công nghệ và khoa học tính toán; khả năng này bao gồm tính độc lập trong tư duy, tính sáng tạo trong ứng dụng, khả năng tự tìm động lực làm việc và học tập cho bản thân...
Tôi đã đọc không ít các bài báo liệt kê một danh sách dài các mảng kiến thức mà sinh viên mới ra trường còn thiếu. Các công ty mạng máy tính thì than phiền rằng sinh viên lập trình C/C++ kém, kiến thức quản trị mạng không có; các công ty làm web thì phàn nàn sinh viên thiếu kiến thức Java, thương mại điện tử... Rõ ràng là không một chương trình nào có thể bao quát hết những thứ có khả năng cần cho tương lai. Một cử nhân với khả năng thích ứng cao sẽ tự học thêm một cách hiệu quả khi công việc hoặc nghiên cứu có yêu cầu mới.
Khi than phiền rằng giáo dục chưa đáp ứng được với nhu cầu thực tế, các công ty cũng phải có phần trách nhiệm đào tạo các nhân viên tương lai dưới các hình thức thực tập viên ( internship, co-op... ) và các chương trình tập huấn khi mới nhận việc. Các chứng chỉ chuyên môn của các công ty lớn ( Microsoft, Cisco, Oracle...) ngoài mục tiêu thương mại và quảng cáo thương hiệu, cũng có nhiệm vụ làm cầu nối giữa học đường và công nghiệp. Không ai có thể vừa tốt nghiệp xong "nhảy bừa" vào làm tốt một việc bất kỳ.
Nhân tố quan trọng nhất tạo khả năng thích ứng với nhu cầu thực tế là chính bản thân sinh viên. Có lẽ không có ngành nào mà sinh viên có lợi thế trên phương diện tài liệu học tập như ngành Khoa Học Máy Tính. Chỉ cần một chút tiếng Anh chuyên môn là sinh viên đã có thể tìm hiểu trực tuyến hầu hết các tài liệu trên Internet. Với một môi trường học tập và tri thức “mở” như Internet, không thể đổ lỗi hoàn toàn cho “cơ chế giáo dục” thiếu đổi mới.
Chương trình có các thành phần có thể "cá nhân hóa" cho cả giảng viên lẫn sinh viên: để sinh viên có thể chọn học, nghiên cứu về các đề tài phù hợp với sở thích và khả năng của họ; và để giảng viên có thể chọn lọc dạy những thứ họ cần học/nghiên cứu thêm, giữ được sự say mê trong công việc.
Với sinh viên, Chương trình phải có các lớp tự chọn. Sinh viên nào định học thạc sĩ, tiến sĩ, thì có thể chọn các môn lý thuyết. Ngược lại, sinh viên nào muốn biết thêm các kiến thức ứng dụng ngay được thì có thể tự chọn các lớp như quản trị mạng, thiết kế VLSI, lập trình cho embeded systems, bảo mật...
Phần tự chọn làm Chương trình linh hoạt hơn, cho sinh viên sự độc lập tự chủ trong hướng nghiệp. Mặt khác, phần này cũng khiến người thầy thêm phức tạp. Ở Mỹ, mỗi sinh viên đại học đều có một giáo sư hướng dẫn với vai trò chủ yếu là hướng dẫn sinh viên lựa các lớp tự chọn sao cho phù hợp với khả năng, sở thích của sinh viên cùng với các yêu cầu hiện tại của công nghệ. Vai trò này không giống với vai trò hướng dẫn nghiên cứu sinh, dù rằng chúng có phần tương đồng. Để làm tốt công việc này đòi hỏi người thầy phải "tâm lý", có cái nhìn thoáng, và nếu có thể - có nhiều quan hệ với các công ty để giới thiệu sinh viên.
Quan trọng hơn, các giảng viên và giáo sư rất cần một chương trình có thể cá nhân hóa được để phục vụ việc cải thiện kiến thức và làm mới sở thích của chính họ. Không có sự làm mới tri thức của người thầy thì Chương trình sẽ là “ Chương trình chết”, gây hậu quả lâu dài cho nhiều thế hệ sinh viên. Ở Mỹ thì các giáo sư và giảng viên hàng năm đều có thể đề cử một lớp mới thêm vào chương trình, hoặc thay cho một lớp cũ đã lỗi thời. Đó là chưa kể sự tự do gần như tuyệt đối của người thầy trong quyền chọn lựa dạy cái gì trong một lớp nhất định. Sách giáo khoa cũng không giống nhau. Thầy nào thích sách nào thì dạy sách đó, và chủ yếu có tính chất tham khảo. Ngành máy tính có lợi thế rất lớn so với các ngành khác là cái mới ra đời hàng phút hàng giây. Đại số tuyến tính cơ bản không thay đổi mấy so với năm mươi năm trước, nhưng mạng máy tính năm 2006 khác xa năm 1996.
Chương trình nhằm đào tạo các cử nhân có tính chuyên nghiệp cao : tính chuyên nghiệp bao gồm khả năng làm việc trong nhóm, cảm nhận về sự công bằng trong công tác, phương cách giao tiếp ứng xử với đồng nghiệp, cấp trên cấp dưới, hiểu biết về các quyền lao động, luật sở hữu trí tuệ và bằng phát minh...
Chương trình có các lớp với các dự án làm theo nhóm trong đó các thành viên được đánh giá theo kết quả làm việc của nhóm thay vì của từng cá nhân; hướng sinh viên đến một tinh thần trách nhiệm chung cho toàn nhóm; tránh kèn cựa bất đắc chí “tôi làm nhiều/anh làm ít”, “tôi giỏi/anh kém”; chịu trách nhiệm phác thảo kế hoạch và hoàn tất dự án đúng thời hạn... Đây cũng là một trong các cơ hội cho sinh viên luân phiên nhau đóng vai trò “lãnh đạo”, tổ chức và vận hành nhóm một cách khoa học, hướng tới việc đứng đầu các nhóm làm việc thật sự sau này. Thậm chí, một nhóm xuất sắc sẽ có khả năng kết tinh ý tưởng thành một sản phẩm hữu dụng, kinh doanh được ngay khi còn đang đi học.
Ở Mỹ, trừ vài ngoại lệ, không bao giờ có chuyện khoa giữ sinh viên lại làm giảng viên/giáo sư vì hai lý do chính: (a) sinh viên tốt nghiệp trường X sẽ bổ sung được cho trường Y cả về tư duy lẫn chuyên môn, giữ sinh viên lại thì khả năng làm mới tư duy kém đi; và (b) để giữ tính chuyên nghiệp trong sinh hoạt giữa các đồng nghiệp với nhau; khó khi nào một “sinh viên lên giảng viên” lại có thể đối xử với thầy hướng dẫn của mình như một đồng nghiệp thực thụ.
Chương trình phù hợp với cơ sở hạ tầng về nhân lực vật lực hiện tại, và phù hợp với chiến lược phát triển nhân/vật lực trong tương lai của cơ sở đào tạo.
Không phải trường nào cũng có một khoa khoa học máy tính khổng lồ như của trường CMU. Các trường như Princeton, Yale, có các khoa Khoa học máy tính nhỏ nhưng chất lượng rất cao, vì họ tập trung phát triển thế mạnh chiều sâu thay vì phát triển tràn lan, ngắn hạn.
Các khoa thường sẽ được chia thành vài nhóm giáo sư/giảng viên, mỗi nhóm chuyên về một phân ngành nào đó. Có 4 nhóm mỗi nhóm 5 người thì tốt hơn là có 20 nhóm mỗi nhóm 1 người. Trường này mạnh về mạng thì trường kia mạnh về thuật toán. Thế mạnh thu hút tài năng và tài năng lại tăng thế mạnh -quả cầu tuyết cứ thế lăn.
Các thế hệ sinh viên cùng một trường sẽ có xu hướng giúp đỡ lẫn nhau, do đó việc có vài sinh viên giỏi, tốt nghiệp xong ở các vị trí quản lý của các công ty xung quanh sẽ có ảnh hưởng rất tích cực đến các thế hệ cử nhân tiếp theo. Vì thế, trong chiến lược phát triển của khoa cần phải có các chương trình học bổng thu hút học sinh giỏi, các chương trình cựu sinh viên để giữ quan hệ tốt với sinh viên cũ, và một ban cố vấn công nghiệp ( industrial advisory board – có thể bao gồm sinh viên cũ ) để thích ứng Chương trình với tình hình hiện tại và đôi khi xin được tài trợ phát triển khoa.
Vai trò của các tổ chức chuyên môn
Ở Mỹ, từ những năm đầu thập niên 60, bốn tổ chức chuyên ngành là ACM, IEEE-CS, AIS, và AITP đã thành lập các nhóm chuyên gia bàn thảo và viết các hướng dẫn về thiết kế chương trình đào tạo trong các ngành liên quan đến tính toán. Gần đây, họ cộng tác với nhau để viết. Bạn có thể đọc thêm phần lịch sử trong bản nháp báo cáo tổng kết năm 2005 (viết tắt là CC2005) của họ để biết thêm chi tiết. Ngoài ra, còn có các tổ chức phi lợi nhuận và phi chính phủ có chức năng kiểm định chất lượng chương trình giáo dục như ABET. Cần phải nhấn mạnh rằng tính độc lập tự chủ của các trường đại học ở Mỹ rất cao, cho nên các tài liệu này chỉ mang tính tham khảo.
CC2005 "gút" lại 5 Chương trình chính hiện nay : Khoa học máy tính ( Computer Science ), Kỹ thuật máy tính ( Computer Engineering ), Hệ thống thông tin ( Information Systems Technology ), Kỹ thuật phần mềm ( Software Engineering ), và Công nghệ thông tin ( Information Technology ).
Ý nghĩa của các Chương trình này có thể tóm tắt như sau :
Kỹ thuật máy tính ( Computer Engineering ) :
Ngành này liên quan đến thiết kế và xây dựng máy tính, các hệ thống máy tính, và các thiết bị liên quan. Hiểu nôm na là nó coi trọng phần cứng.
Hệ thống thông tin ( Information Systems Technology ) :
Ngành này liên quan đến việc thiết kế các hệ thống thông tin cho các cơ quan, tổ chức. Ngành nhấn mạnh vào phần thông tin của Công Nghệ Thông Tin và thường được các khoa kinh doanh ( Business ) dạy. Các chương trình kiểu hệ thống thông tin quản trị ( Information Management Systems ) là thuộc diện này.
Kỹ thuật phần mềm ( Software Engineering ) :
Ngành này đặt trọng tâm ở việc thiết kế, phát triển, bảo trì phần mềm và các chu trình làm việc liên quan đến phần mềm. Trong một chừng mực nhất định, Khoa Học Máy Tính tương đương với ngành xây dựng, và Kỹ thuật phần mềm tương đương với ngành kiến trúc.
Công Nghệ Thông Tin ( Information Technology ) :
Trái với Hệ thống thông tin, ngành Công Nghệ Thông Tin chú trọng vào phần công nghệ. Các doanh nghiệp và các tổ chức tư nhân và nhà nước hiện nay đều cần có một phòng hay một ban Information Technology, với các nghiệp vụ liên quan đến cài đặt mạng, bảo trì máy, cập nhật phần mềm chống worms, virus, đặt tường lửa... Ngành này đang phát triển mạnh vì nhu cầu rất thực tế này.
Khoa Học Máy Tính ( Computer Science ) :
Đây là phân ngành rộng nhất của tính toán. Các chủ đề của ngành này có thể nói là bao quát toàn bộ những thứ liên quan đến tính toán, từ cấu trúc máy tính đến các hệ thống thông minh, người máy, đến thuật toán và lý thuyết tính toán.
Với khối kiến thức khổng lồ như thế, chọn lựa và thiết kết một Chương trình đào tạo hiển nhiên không phải dễ dàng. Cũng chính vì thế, việc các nhiều khoa Khoa Học Máy Tính và nhiều công ty máy tính có nhiều dị biệt về triết lý và nội dung đào tạo cũng là điều dễ hiểu. Hy vọng rằng các nguyên tắc đã nêu phần nào hữu ích trong quá trình thiết kế Chương trình.
Cái “thần” của Khoa Học Máy Tính
Các điều đã viết vẫn là phần cơ học của một chương trình đào tạo và các phần tử liên quan. Để trở thành một kỹ sư hay khoa học gia máy tính thực thụ, sinh viên phải nắm bắt được tinh thần của ngành, bao gồm các khía cạnh kỹ thuật, khoa học, xã hội, và lịch sử của Khoa Học Máy Tính. Đối với sinh viên mới bước vào ngành, ta cần phát triển cho họ các mô hình nhận thức trong não về các khái niệm cơ bản của Khoa Học Máy Tính. Thay vì định nghĩa cụ thể, ta xét một vài ví dụ về cảm nhận cá nhân với Khoa Học Máy Tính :
• Khái niệm “tính toán” ( computation ), một trong những đóng góp sâu sắc nhất của Khoa Học Máy Tính cho kho tàng tri thức của nhân loại. Tính toán không bị ràng buộc bởi một mô hình cụ thể nào đó ( như mô hình máy Turing, mô hình RAM/Bus/CPU...). Không ít các nhà khoa học tin rằng các quá trình sinh học và vật lý là các quá trình tính toán. Tự nhiên có các thuật toán của nó. Không phải ngẫu nhiên mà Khoa Học Máy Tính đang vươn cánh tay non trẻ của nó sang sinh học, vật lý, kinh tế, toán học, với các phân ngành phát triển cực nhanh những năm gần đây như computational biology, computational physics, quantum computing, computational game theory, computational chemistry, computational neuroscience... Giải Nobel Kinh tế 2005 được trao cho các khoa học gia nghiên cứu lý thuyết trò chơi. Tôi tin vài mươi năm nữa sẽ có Nobel kinh tế cho người làm về computational game theory. Nobel Vật lý liên quan đến tính toán lượng tử có lẽ sẽ đến sớm hơn nữa. Chú ý rằng các phân ngành kể trên không đơn thuần là ứng dụng máy tính vào một khoa học khác. Rất nhiều các quá trình của tự nhiên về cơ bản là quá trình tính toán, và chúng ta mới chỉ bắt đầu khám phá các quá trình tính toán trong tự nhiên.
• Khoa Học Máy Tính không phải là Java, C++, hay lập trình web. Thật đáng buồn khi một sinh viên máy tính nghĩ về ngành máy tính bằng ánh mắt của một lập trình viên. Lập trình có thể là công việc ta phải làm hàng ngày, nhưng mỗi chúng ta cần phải hiểu rằng lập trình chỉ là một phương pháp bổ củi để hiện thực hóa các ý tưởng thiết kế tuyệt đẹp, các thuật toán sâu sắc, hay các hacks thông minh. Bổ củi và khắc gỗ hiển nhiên là khác nhau.
• Cũng thật đáng buồn nếu tầm nhìn của dân máy tính bị gói gọn từ Bill Gates sang Steve Jobs, từ IBM đến Oracle, hay từ search engines đến spreadsheets. Khi nghĩ đến Vật lý ta không chỉ liên tưởng đến CEO của các công ty làm máy tăng tốc hạt, các xưởng sản xuất bom nguyên tử, hay làm vật liệu bán dẫn. Khoa Học Máy Tính còn rất trẻ so với Vật lý, nhưng Khoa Học Máy Tính cũng có một câu chuyện cực kỳ truyền cảm để kể. Ảnh hưởng về mặt khái niệm của Khoa Học Máy Tính đến xã hội và các ngành khoa học khác nhiều không kể xiết.
Sinh viên nào nắm bắt được tinh thần của chuyên môn mình sẽ là sinh viên có nhiều khả năng giỏi chuyên môn và thích ứng tốt nhất.
TS Ngô Quang Hưng
Hỗ trợ các Doanh Nghiệp Vừa và Nhỏ ứng dụng Công Nghệ Thông Tin để nâng cao năng lực quản lý và khả năng cạnh tranh trong qúa trình hòa nhập vào nền kinh tế toàn cầu
Đến năm 2010, tỷ lệ ứng dụng Công Nghệ Thông Tin mới chỉ chiếm khoảng 37% trong các Doanh Nghiệp . Việc hỗ trợ các Doanh Nghiệp ứng dụng Công Nghệ Thông Tin trong quá trình hội nhập và phát triển là điều hết sức cần thiết , vì các Doanh Nghiệp rất cần Tư Vấn về các lợi ích trong việc lựa chọn các giải pháp thích hợp và các chương trình đào tạo kỹ năng về ứng dụng Công Nghệ Thông Tin trong các dịch vụ Lưu Trữ Dữ Liệu và giao dịch Thương Mại Điện Tử ở Doanh Nghiệp.
Để thúc đẩy việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các Doanh Nghiệp vừa và nhỏ, Nhà nước cần có cơ chế gián tiếp như phối hợp với các Bộ, Ngành xây dựng ( Chính Phủ Điện Tử ) Cơ Sở Dữ Liệu để sử dụng chung , các Doanh Nghiệp chỉ cần truy nhập Internet mà không cần đến tận nơi để giao dịch. Song song đó, các Doanh Nghiệp cung cấp các giải pháp Phần Mềm về : Kế Toán , Tài Chính , Điều Khiển Nhân Sự , làm các Hợp Đồng Thương Mại và Kỹ Thuật cũng nên có các chương trình đơn giản, dễ hiểu, giá cả hợp lý để thu hút các Doanh Nghiệp vừa và nhỏ tham gia cũng như có kế hoạch đầu tư lâu dài vào các lợi ích về việc ứng dụng Công Nghệ Thông Tin trong các dịch vụ Giao Dịch Thương Mại Điện Tử như ở các nước phát triển ( Châu Âu , Mỹ , Nhật Bản ... ).
Với tốc độ tăng trưởng số lượng hiện tại , đến năm 2010 , Việt Nam sẽ có khoảng 540.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ và 2 triệu Hộ Kinh Doanh cá thể, chiếm 96% tổng số Doanh Nghiệp trên cả nước, đóng góp 26% tổng sản lượng quốc gia.
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN :
Quý công ty có thể thực hiện các dịch vụ Giao Dịch Thương Mại Điện Tử miễn phí ( sử dụng VOIP : Voice over Internet Protocol qua mạng INTERNET : dịch vụ điện thoại Internet gọi đường dài trong nước và quốc tế ) bằng các Phần Mềm tải từ các Trang Web : http://www.yahoo.com hay http://www.skype.com hoặc quảng cáo Tiếp Thị các mặt hàng và các Dịch Vụ Thương Mại qua Mạng bằng các Trang Web lưu trữ trong máy chủ ở công ty qua ĐƯỜNG TRUYỀN BĂNG THÔNG RỘNG ADSL với Hệ thống điều hành LINUX ( Web server : APACHE + Lưu trữ dữ liệu : MYSQL + PHP ) tất cả đều miễn phí.
Quý công ty có thể tải xuống ( download ) Hệ thống điều hành LINUX + Lưu trữ dữ liệu MYSQL + PHP từ các Trang Web sau :
http://www.linux.com
http://www.mysql.com
http://www.php.com
TRUNG TÂM INTERNET VIỆT NAM - VNNIC
website : http://www.vnnic.net.vn
Là nơi mà Quý công ty có thể đăng ký Tên miền cho Trang WEB của doanh nghiệp mình.
Tên miền được các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân đăng ký nhằm mục đích thể hiện quyền và lợi ích chính đáng của mình trên Internet, thông qua đó góp phần quảng bá về tổ chức, sản phẩm, dịch vụ và tiến hành các hoạt động thương mại và phi thương mại trong môi trường Internet toàn cầu.
Ngoài ra Qúy công ty cũng có thể sử dụng các tên miền cấp hai do những trung tâm cung cấp tên miền miễn phí trên INTERNET ( http://www.dyndns.com ).
Công nghệ băng rộng thế hệ thứ hai ADSL 2+ = 8.192 Kbps , 20.480 Kbps
Dịch vụ ADSL là loại hình dịch vụ truy nhập Internet tốc độ cao sử dụng công nghệ băng rộng ( ADSL = 128 Kbps , 256 Kbps , 512 Kbps , 1024 Kbps , 2048 Kbps và Công nghệ băng rộng thế hệ thứ hai ADSL 2+ = 8.192 Kbps , 20.480 Kbps ) được cung cấp dựa trên lợi thế về hạ tầng viễn thông phù hợp với người sử dụng tại gia đình và các văn phòng, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Với dịch vụ Internet băng rộng ADSL, bạn sẽ không phải ngồi đợi hàng giờ đồng hồ để tải về các tập tin có kích thước lớn hay xem các trang Web trên mạng Internet. Mọi thứ sẽ trở nên nhanh chóng và dễ dàng hơn so với hình thức kết nối Internet truyền thống qua đường dây điện thoại ( Dial-up = 56 Kbps ).
Trang WEB : ( Các nhà cung cấp INTERNET BĂNG THÔNG RỘNG ADSL ) :
Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt nam
Vietnam Posts and Telecommunications Group - VNPT
Trụ sở : 57 Huỳnh Thúc Kháng, Q.Đống Đa, Tp. Hà Nội
Văn phòng : 84.4.35775104 , 84.4.37741513 - Fax : 84.4.37741093
Email : vnpt_website@vnpt.com.vn , Email : vanphong@vnpt.com.vn
Website : http://www.vnpt.com.vn
Công ty Viễn thông Viettel ( Viettel Telecom ) trực thuộc Tổng Công ty Viễn thông Quân đội Viettel
Quý khách có nhu cầu sử dụng vui lòng liên hệ tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh :
04 6255 5888 ( Hà Nội )
08 6255 5888 ( TP Hồ Chí Minh )
Website : http://www.viettel.vn
Công ty FPT Telecom
Hỗ trợ kỹ thuật
04 7300 8888 ( Hà Nội )
08 7300 8888 ( TP Hồ Chí Minh )
Website : http://www.fpt.vn
Truy cập Internet tốc độ cao bằng mạng không dây Wi-Fi
Máy vi tính Laptop chứa card Wi-Fi bên trong hoặc cắm card Wi-Fi bên ngoài qua cổng USB.
Wireless High Speed Mode USB Adapter 802.11b : 11 Mbps .
Wireless High Speed Mode USB Adapter 802.11g : 54 Mbps .
Truy cập Internet tốc độ cao bằng công nghệ 3G ( Băng rộng di động )
Kết nối GPRS từng mang lại cho người tiêu dùng nhiều thuận lợi trong công việc vì trước đây không dễ tìm điểm truy cập Internet .
Máy vi tính Laptop chứa khe cắm SIM 3G cho phép người sử dụng truy cập Internet nhanh chóng tại những khu vực phủ sóng di động thế hệ ba mà không cần đến các điểm truy cập Wi-Fi. Những ai thường xuyên phải di chuyển sẽ là khách hàng đầu tiên đón nhận công nghệ này. Ngoài ra, người sử dụng cũng có thể mua modem 3G cắm ngoài qua cổng USB.
Debit up : 64Kbps ( 128 Kbps )
Debit down : 128Kbps ( 384 Kbps )
Hình kết nối mạng Internet ở các văn phòng, doanh nghiệp vừa và nhỏ với 1 ĐƯỜNG TRUYỀN BĂNG THÔNG RỘNG ADSL :
Chính phủ Hoa Kỳ thúc đẩy việc truy cập Internet tốc độ cao sử dụng công nghệ Băng rộng thế hệ thứ hai ADSL 2+ : 8.192 Kbps , 20.480 Kbps
Chính phủ Hoa Kỳ công bố chi tiết của một chương trình 2 tỉ USD ( Mỹ Kim ) về trợ cấp và những khoản cho vay để giúp mở rộng việc truy cập Internet Băng rộng ADSL của người Mỹ và tạo ra hàng chục ngàn việc làm mới.
Các ngân khoản, sẽ được tháo khoán trong thời gian 75 ngày tới, nằm trong số 7,2 tỉ USD ( Mỹ Kim ) được dành riêng trong chương trình hồi phục kinh tế 787 tỉ USD ( Mỹ Kim ) của ông Obama để đưa việc truy cập Internet Băng rộng ADSL tới các cộng đồng Hoa Kỳ không có hoặc không được phục vụ đầy đủ.
Phó Tổng Thống Joe Biden, tại một buổi lễ ở Dawsonville, Georgia, đã loan báo các chi tiết của một vụ đầu tư sơ khởi 183 triệu USD ( Mỹ Kim ) vào các dự án Băng rộng ADSL tại 17 tiểu bang.
Gần hai phần ba người Mỹ đã sử dụng Internet Băng rộng ADSL tại nhà, trong khi một phần ba có thể truy cập nhưng đã không lựa chọn nó, và 4% nói nơi họ sống không có phương tiện truy cập, theo Ủy Ban Truyền Thông Liên Bang .
Kinh tế gia trưởng của ông Biden, Jared Bernstein, nói với các phóng viên trong một cuộc thuyết trình rằng chính phủ không thể cung cấp các con số chính xác hơn về số việc làm sẽ được tạo ra, nhưng các viên chức Tòa Bạch Ốc nói “hàng chục ngàn việc làm” có thể được tạo ra trong tương lai gần.
Ủy Ban Truyền Thông Liên Bang đã mở một cuộc họp vào ngày Thứ Tư để cung cấp tin tức mới về kế hoạch Băng rộng ADSL trên toàn quốc, sẽ được trình lên Quốc Hội vào Tháng Hai.
Hôm Thứ Năm, các viên chức nói rằng các dự án phát triển Băng rộng ADSL nhằm nối các cộng đồng với “xương sống Internet,” một hệ thống lớn các dây cáp sợi quang học Băng rộng ADSL sẽ trải ra trên toàn quốc.
Họ nói các khoản trợ cấp và cho vay, đang được các bộ Thương Mại và Nông Nghiệp tháo khoán, sẽ giúp phát triển Băng rộng ADSL dành cho giáo dục, y tế và cung cấp cho các công nhân sự linh động để làm việc tại nhà.
( Reuters )
Chính phủ Pháp giúp dân vào “mạng” Internet Băng rộng ADSL thế hệ thứ hai ADSL 2+ với giá rẻ
Biết mình thua kém nhiều nước khác trên lĩnh vực thông tin tin học, nhà nước Pháp quyết định đầu tư 2 tỷ Euros vào việc phát triển hạ tầng cơ sở cho mạng lưới ADSL và vệ tinh thông tin . 2,5 tỷ Euros giúp gia tăng các dịch vụ cho tư nhân ( trong số 35 tỷ công trái tung ra năm nay ). Quan niệm rằng hệ thống máy móc để vào Internet với vận tốc cao ngày nay cũng cần thiết như điện . Chính phủ Pháp sẽ đề nghị với các công ty tư nhân hạ giá thuê bao : bắt đầu từ tháng sáu tới ( 6/2010 ) , giá thuê bao trọn gói ADSL vào khoảng 20 Euros một tháng ( vào Internet 24/24 + Điện thoại nhà miễn phí ) , để thêm đông người có thể sử dụng được phương tiện này.
“Chúng tôi không chấp nhận chỉ dành cho người tỉnh thành được hưởng lợi ích của ngành điện toán,” lời của Thủ Tướng Fillon. Những nơi mà giây quang học ( fibre optique ) không tới được, tin tức sẽ được chuyển qua vệ tinh. Hiện nay giá thuê bao các đường dây ADSL tối thiểu là 29,90 Euros một tháng theo đa số các công ty cung cấp dịch vụ thuê bao ( Free, Dartybox, Neufbook de SFR, Bouygues ), ngoại trừ Alice 29,95 Euros, Orange 34,90 Euros một tháng.
|