NewYork Paris Hà Nội Khách thứ :

NIỀM TIN TƯƠNG LAI

     

Mở bể Than 210 tỷ tấn : Tiềm năng lớn, rủi ro cao

Bản đề án phát triển bể than đồng bằng sông Hồng của Tập đoàn Than - khoáng sản Việt Nam TKV đang khiến dư luận quan tâm đặc biệt bởi tính khả thi.

Theo tính toán của tập đoàn Than - khoáng sản Việt Nam (TKV), năm 2010, tổng nhu cầu than trong nước vào khoảng 25-26 triệu tấn, tổng lượng sản xuất đạt khoảng 45-47 triệu tấn thì Việt Nam vẫn có thể xuất khẩu tầm 20 triệu tấn rồi lượng sản xuất, xuất khẩu sẽ phải giảm dần để đến năm 2012, sẽ chỉ còn khoảng 5 triệu tấn. Và đó cũng chính là lý do TKV đệ trình đề án xin mở cửa bể than đồng bằng sông Hồng (ĐBSH).

Tuy nhiên giới khoa học đang quan ngại về tính khả thi của đề án, đặc biệt lo ngại vấn đề môi trường nước, môi trường sống, về an ninh lương thực cũng như hiệu quả kinh tế....

Để đáp ứng thông tin đa chiều, Tuần Việt Nam khởi đăng loạt bài liên quan đến dự án bể than đồng bằng sông Hồng. Mời quý vị độc giả cùng tham gia phân tích.

Sao phải tính đến việc mở bể than đồng bằng sông Hồng vào lúc này?

Theo tính toán của TKV, cho tới năm 2015, nhu cầu “vàng đen” trong nước đã lên tới 94 triệu tấn, riêng các nhà máy điện than ngốn hết 67 triệu tấn nhưng tổng lượng than sản xuất ra chỉ khoảng 60 triệu tấn.

Năm 2020, tổng nhu cầu đã lên đến 184 triệu tấn, các nhà máy điện than dùng hết 150 triệu tấn nhưng sản xuất chỉ có thể đạt 70 triệu tấn. Còn tới năm 2025, tổng nhu cầu than ước tính lên tới 308 triệu tấn ( nhà máy điện dùng hết khoảng 268 triệu tấn ). Để bù đắp số lượng thiếu hụt, từ năm 2030 Việt Nam sẽ phải nhập than.

Chính vì vậy, việc mua than phải được tính ngay, đàm phán từ bây giờ nhưng các cuộc đàm phán ban đầu chưa mấy thành công vì giá than đã được nhiều nước bán ra hét với giá mà khi xưa, nước ta còn xuất khẩu mạnh, chẳng bao giờ bán được.

Thế nên, TKV đặt vấn đề là phải tiếp tục đẩy mạnh khai thác nguồn than trong nước trong đó có những vùng mỏ than chưa được khai thác được lãnh đạo TKV nghĩ là có tiềm năng to lớn.

Ví dụ, tại vùng đồng bằng sông Hồng, theo TKV, đây có thể chứa một “bể than” với trữ lượng to lớn, lớn hơn cả bể than vùng Đông Bắc sẽ giúp cân bằng cung - cầu năng lượng của đất nước sau năm 2020, nếu tổ chức thăm dò, khai thác thành công. “Bể than” này được ước tính có trữ lượng khoảng 210 tỷ tấn, có những loại than sẽ đáp ứng rất tốt cho nhu cầu của các nhà máy nhiệt điện chạy than, cho luyện kim.

Từ cuối tháng 6-2009, một đề án với tên gọi “phát triển bể than đồng bằng sông Hồng” đã được TKV xây dựng và Bộ Công thương đã gửi đề án này đến nhiều bộ, ngành để lấy ý kiến góp ý.

Như đã nói ở trên, sự thiếu hụt ở mức khổng lồ nguồn nhiên liệu này rõ ràng đã khiến cho yêu cầu phải đẩy mạnh, khai thác những vùng than mới như bể than ĐBSH là vô cùng cấp thiết.

Tiềm năng lớn, rủi ro cao

Tuy nhiên, việc tổ chức thăm dò, khai thác vùng than rất tiềm năng này đòi hỏi cần phải được nghiên cứu, triển khai một cách khoa học, với sự thận trọng tối đa bởi bể than ĐBSH trải trên một vùng diện tích đất đai vô cùng rộng lớn - nơi có hàng triệu người dân sinh sống với hàng triệu ha đất nông nghiệp trù phú, gắn liền với rất nhiều công trình xây dựng, kiến trúc... Bất cứ một sự thăm dò, khai thác cẩu thả nào dù nhỏ sẽ có thể đưa đến những hậu quả to lớn về kinh tế-xã hội mà cho dù, kết quả khai thác thế nào, cũng khó bù đắp được.

Trên thực tế, TKV cũng đã bắt đầu có những hoạt động thăm dò bể than đồng bằng sông Hồng. Mặc dù vậy, việc thăm dò vẫn còn dừng ở mức sơ khai vì tập đoàn này cũng đã thấy trước những khó khăn rất lớn của việc thăm dò. Vùng chứa than nằm ở những nơi có độ sâu lớn, điều kiện khai thác vô vùng khó khăn trên phạm vi rất rộng ( dự kiến khoảng 3500 km 2 ) thuộc các tỉnh : Nam Định, Hưng Yên, Thái Bình.

Dự kiến tạm thời thăm dò, khảo sát một số mỏ như mỏ Bình Minh, mỏ Khoái Châu 1 và mỏ Khoái Châu 2. Chỉ tính riêng các mỏ này, độ sâu thấp nhất dự kiến đã là 400-600 m, nơi sâu nhất có thể tới 900-1200m.

Cho nên, ngay cả với giai đoạn đầu này thì chi phí cho thăm dò, khai thác đã là một vấn đề hết sức khó khăn. Theo ước tính, chỉ riêng chi phí khảo sát bể than này đã ngốn hết 6500 tỷ đồng. Tổng mức đầu tư cho các dự án lên tới 76 nghìn 360 tỷ đồng.

Do đó, TKV đã và đang phải tìm kiếm các nhà đầu tư nước ngoài để hợp tác thăm dò, tiến tới khai thác bể than đầy tiềm năng này.

Cho đến nay, tập đoàn này đã ký các bản hợp đồng hợp tác kinh doanh với Linc Energy, Australia, và Marubeni Corp., Nhật Bản, tiến hành áp dụng thử nghiệm phương pháp khí hóa than dưới lòng đất vào 1 mỏ than ở đồng bằng sông Hồng.

Công ty năng lượng sông Hồng ( thuộc TKV ) cũng đã ký thoả thuận với Tổng công ty Xuất nhập khẩu XNK máy Trung Quốc CMC để triển khai dự án thăm dò bổ sung khu vực Khoái Châu - Bình Minh tiến tới thành lập công ty liên doanh khai thác mỏ Bình Minh bằng phương thức hầm lò giếng đứng truyền thống...

Những phản biện ban đầu

Bản đề án phát triển bể than đồng bằng sông Hồng gửi đi các bộ, ngành cũng đã nhận được những ý kiến ban đầu. Bộ Xây dựng đã có những quan ngại và đề nghị TKV phải xem xét kỹ hơn về các vấn đề: khu vực khai thác than phải không được phá vỡ những định hướng lớn về quy hoạch xây dựng vùng và quy hoạch đô thị; không ảnh hưởng đến diện tích đất trồng lúa, công nghệ khai tác không được ảnh hưởng đến đất nền vùng khai thác.

Bộ Xây dựng cũng cho rằng, TKV phải tính được đến yếu tố tác động của xu hướng biến đổi khí hậu toàn cầu...

Trong khi đó, bản phản biện của Liên hiệp các hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam cho rằng đề án khai thác than đồng bằng sông Hồng "sơ sài, trùng lặp, thiếu cơ sở", thiếu báo cáo đánh giá môi trường chiến lược. Đặc biệt, bản phản biện cảnh báo : Do nước trong tầng Đệ tứ và Neogen liên thông với nhau, đất đá trong tầng Neogen rất mềm bở, dẫn tới khi khai thác ở độ sâu dưới 300 mét, chẳng hạn tại mỏ Bình Minh - Khoái Châu, nước sẽ chảy vào mỏ với tốc độ lên tới trên 20.000 m3 một giờ. Muốn khai thác, phải tháo khô mỏ. Điều này có thể làm nhiễm mặn mặt đất, kết hợp với việc sụt lún lan tỏa theo bề mặt, biến đồng bằng thành hồ chứa nước mặn, ảnh hưởng đến môi trường mưu sinh của con người và động thực vật nơi đây.

Dù đây mới chỉ là những góp ý đầu tiên, nhưng nó cũng cho thấy tầm quan trọng đến thế nào của đề án trên.

Với qui mô và tính chất đặc biệt quan trọng của dự án này, chắc rằng TKV sẽ phải làm lại, kỹ lưỡng hơn nhiều đề án và cần phải trình ra Quốc hội về chủ trương khai thác đầu tư, những đánh giá đầy đủ về tác động môi trường, xã hội, hiệu quả kinh tế... để dự án được xét duyệt, thẩm tra một cách đầy đủ, được sự đồng thuận cao trong hệ thống chính trị, trong dư luận nhân dân chứ không như các dự án khai thác bauxite trước đây.

Nguyễn Hà

Mở bể than 210 tỷ tấn : Không đánh đổi lúa lấy than

"Phải thử nghiệm. Nếu khai thác than mà có lợi và giữ được lúa thì chúng ta làm. Còn không, phải dừng lại. Chúng ta không bao giờ chấp nhận đánh đổi".

Tuần VN vừa có cuộc trao đổi với TS địa chất Nguyễn Sỹ Quý, nguyên cán bộ Vụ Khoa học Công nghệ, Bộ Công nghiệp ( nay là Bộ Công thương ), thành viên Hội đồng phản biện của VUSTA với Đề án bể than đồng bằng sông Hồng của TKV. Ông Quý từng có kinh nghiệm tham gia khảo sát địa chất than ở Quảng Ninh và vùng Khoái Châu (Hưng Yên).

Đồng bằng sông Hồng sẽ sụt lún nghiêm trọng ?

Là một thành viên tham gia phản biện, ông có ý kiến gì xung quanh bản Đề án khai thác bể than sông Hồng của TKV?

Dự báo trữ lượng than ở khu vực này là 210 tỷ tấn với 100 vỉa than, mỗi vỉa dày vài mét.

Quan ngại lớn nhất của chúng tôi với việc khai thác bể than sông Hồng là vấn đề sụt lún, biến vựa lúa đồng bằng sông Hồng thành hồ chứa nước nhiễm mặn. Thậm chí, cũng có người dự báo nếu không cẩn thận, chúng ta sẽ phải di dân tới nơi khác ở.

Cái đáng lo là ở chỗ khả năng sụt lún sẽ không diễn ra ngay lập tức, mà từng bước, mỗi ngày một ít. Và sẽ một ngày nào đó, cả vùng đồng bằng rộng lớn của chúng ta sẽ chìm trong chua mặn.

Tuy nhiên, đây mới chỉ là tiên đoán ban đầu, còn việc sụt lún ra sao phụ thuộc vào việc chúng ta sẽ khai thác ra làm sao, công nghệ thế nào.

Tại đề án, TKV cũng nêu giải pháp, trong trường hợp đất sụt do khai thác, sẽ đổ đất để bù vào. Thế nhưng, giải pháp này có vẻ hơi hài hước. Không hiểu họ sẽ lấy đất ở đâu, nhất là với một khối lượng khổng lồ như vậy. Hoặc giả thử có thể làm được cái việc đó thì cũng chưa chắc đã tái canh tác ngay được.

Ông vừa nhấn mạnh tới khả năng khai thác bể than đồng bằng sông Hồng sẽ có thể dẫn tới nguy cơ sụt lún đất. Ông có thể mô tả kỹ hơn về nguy cơ này thế nào ?

Phải lưu ý, nền địa chất ở Đồng bằng sông Hồng là đất xốp. Nếu có sụt lún xảy ra sẽ không sụt thẳng. Mà giống như việc một ngôi nhà bị sụt, nó sẽ kéo theo nhà bên cạnh, dù ít hơn và dẫn tới một phản ứng dây chuyền sang cả khu vực xung quanh. Chúng tôi gọi hiện tượng này là sụt lan tỏa, sụt kéo theo. Khi ấy, chúng ta sẽ không lường hết được tác hại.

Nhưng thưa ông, hiện nay khoa học kỹ thuật trên thế giới đã đạt được nhiều tiến bộ to lớn. Liệu chúng ta có thể có cách nào để xử lý việc sụt lún nếu tiến hành mở bể than đồng bằng sông Hồng không ?

Khó lắm. Về lí thuyết, có thể chống sụt lún bằng phương pháp chèn lò, lấp bằng phù sa. Tuy nhiên, ngay cả khi làm được thì cũng chỉ giải quyết được một phần, không thể bù đắp hết. Chính phần thiếu hụt đó sẽ gây nên hiện tượng sụt lún.

Địa chất thủy văn : Đối tác Nhật cũng “bó tay”

Bên cạnh nguy cơ gây sụt lún đất, còn điều gì khiến ông quan ngại về tính khả thi của dự án này ?

Cốt lõi của việc khai thác than ở Đồng bằng sông Hồng chính là vấn đề nước và vấn đề đá.

Về nước, theo tính toán của các nhà khoa học đã được công bố nhiều năm nay, lượng nước chảy vào công trình khai thác mỏ sẽ là 20.000 m3/h. Hiện nay, về mặt khoa học, chúng ta chỉ có thể bơm tháo khô được lượng nước 6000 – 10.000 m3/h. Với lượng nước trên 10.000 m3/h, khoa học vẫn đang bó tay, chưa có cách gì xử lý được. Nếu không tháo khô được mỏ, làm sao chúng ta khai thác ? Đó là vấn đề hết sức nan giải.

Từ những năm 1980, Việt Nam đã muốn kiểm tra xem bể than Đồng bằng sông Hồng có khả năng khai thác được không. Chúng ta có đặt vấn đề nhờ Hội đồng Tương trợ kinh tế SEV giúp đỡ, tuy nhiên họ cho biết không có khả năng để giúp Việt Nam.

Trong các năm 1998 – 2001, đối tác NEDO của Nhật Bản cũng đã tiến hành khảo sát, thăm dò một phần bể than Đồng bằng sông Hồng, thế nhưng họ cũng nói rằng, việc xử lý vấn đề nước ở khu vực này là quá khả năng. NEDO đã rút lui, không tiếp tục kế hoạch ở bể than Đồng bằng sông Hồng.

Ông có biết lí do NEDO rút lui ?

Vào thời điểm đó, đối tác Nhật Bản cũng đã nghe về tổng lượng nước chảy vào công trình khai thác mỏ là 20.000 m3/h và họ hi vọng con số này là không có thật. NEDO đã tiến hành thăm dò địa chất, trong đó một nửa số mũi khoan là để kiểm tra địa chất thủy văn. Cuối cùng, họ đành bỏ phí 15 triệu USD ( giá vào thời điểm năm 2001 ).

Thủy văn công trình : 20.000 m3/h hay 6.000 m3/h

Với đề án mở cửa bể than Đồng bằng sông Hồng, phải chăng họ đã có phương án xử lý được vấn đề nước ?

Theo đề án của TKV, họ mới thử nghiệm công nghệ xử lý 6000 m3/h, không phải là 20.000 m3/h. Muốn biết có làm được hay không, theo tôi, phải thử nghiệm nghiêm túc.

Liệu có việc, ở địa điểm này lưu lượng thủy văn công trình là 6.000 m3/h trong khi ở địa điểm khác, lượng nước lên tới 20.000 m3/h?

Không có chuyện đó. Đặc trưng địa chất ở Đồng bằng sông Hồng là có nhiều "cửa sổ", nghĩa là nhiều nơi không có lớp đất sét cách nước. Việc có nhiều "cửa sổ", đồng nghĩa với việc khối lượng nước sẽ cùng đổ dồn qua các "cửa sổ" đó để tràn vào các vỉa than. Hơn nữa việc có nhiều "cửa sổ" địa chất thủy văn, thì lượng nước sẽ không thể chỉ là 6.000 m3/h được.

Ngay trong bản báo cáo địa chất kết quả khảo sát, tìm kiếm, thăm dò than Đồng bằng sông Hồng của tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam tháng 5/2006 cũng dẫn nghiên cứu của NEDO cho biết, lượng nước chảy vào công trình khai thác mỏ là 20.000 m3/h. Trong khi đó, bản đề án của TKV chỉ viết vỏn vẹn: Lượng nước là 6000 m3/h. Tôi không rõ cơ sở khoa học để TKV đưa ra con số 6000 m3 nước/h là căn cứ thế nào.

Không thể nghĩ đơn giản rằng nước chảy vào công trường khai thác mỏ thì bơm ra. Đây là nước chua, đã nhiễm mặn, phải qua xử lý. Chúng ta không thể bơm ra như khi chống lụt, mà cần có đường dẫn và hệ thống xử lý. Hiện nay, đề án của TKV chỉ nêu chung chung là bơm ra ngoài, nhưng thải nước ra như thế nào, xử lý ra sao, cũng chưa thấy nó nêu một cách thuyết phục.

Khi rút nước ở dưới tầng sâu khai thác mỏ, vô hình chung, chúng ta đã gọi nước biển vào, làm mặn hóa Đồng bằng sông Hồng. Cả một thảm thực vật lớn sẽ thay đổi. Hướng thay đổi như thế nào, xảy ra trong bao lâu, TKV cũng cần cùng các bên liên quan nghiên cứu kỹ lưỡng.

Trên thế giới đã có nước nào từng khai thác than ở điều kiện như vậy chưa, thưa ông ?

Nhật Bản đã khai thác thành công ở khu vực đảo Hockaido, dưới lòng Thái Bình Dương. Tuy nhiên, điều kiện đất đá của họ hoàn toàn khác. Đất trên và dưới vỉa than của Nhật Bản đều cứng rắn.

Trong khi đó, đất đá ở Đồng bằng sông Hồng có đặc tính mềm, bở. Hệ thống vách trụ để khai thác mỏ khó. Nguy cơ sập lò là hiện hữu. Mặc dù có thể khắc phục được địa chất công trình nhờ vào công nghệ và kinh nghiệm khai thác than lâu năm của Việt Nam, tuy nhiên, chi phí sẽ đội lên, rất tốn kém.

Không chấp nhận đánh đổi

Thưa ông, việc Việt Nam sẽ thiếu than là nguy cơ hiện hữu, nếu không có nguồn bù đắp thì chúng ta sẽ phải bỏ tiền để nhập khẩu. Việc mở cửa bể than đồng bằng sông Hồng đang được bàn bạc. Theo ông, để có thể đưa ra quyết định đúng, chúng ta cần phải làm gì ?

Cần kiểm chứng và xác minh lại các con số, nhất là về địa chất thủy văn và địa chất công trình. Hiện nay đang tồn tại nhiều luồng quan điểm rất khác nhau, do vậy cần phải thử nghiệm.

TKV cũng nói rằng họ sẽ làm 4 dự án thử nghiệm để có được câu trả lời. Theo ông khi thử nghiệm cần tập trung vào những vấn đề nào ?

Theo tôi, chúng ta cũng không cần phải tiến hành thử nghiệm ở quá nhiều. Chỉ cần 2 dự án thử nghiệm là đủ.

Đúng là chúng ta cần phải làm thử nghiệm chứ không phải thăm dò. Mà mỗi thử nghiệm chỉ cần làm với 150 triệu tấn than. Chúng ta có đủ lượng than C1, C2 để thử nghiệm mà không cần phải thăm dò.

Sau khi tiến hành thử nghiệm, nếu giải đáp được các câu hỏi về nước, về đất, về tác động môi trường… và vẫn đáp ứng được yêu cầu về hiệu quả kinh tế thì hãy làm. Nếu không, chúng ta phải kiên quyết dừng lại.

Khai thác than chỉ có thời hạn nhất định, chỉ trăm năm và chứa đựng nhiều hiểm họa. Trong khi đó, vựa lúa có thể khai thác cả nghìn năm. Hãy cứ thử nghiệm cho thấu đáo. Nếu kết luận cuối cùng là khai thác than mà có lợi và giữ được lúa thì chúng ta làm. Còn không thì không bao giờ chấp nhận đánh đổi.

Thu Hà – Hoàng Phương

Kết quả dự tính lượng nước chảy vào mỏ :

Tổng lượng nước chảy vào công trình khai thác hầm lò trong trường hợp khai thác hầm lò là 16.829 m3/h.

Tổng lượng nước chảy vào công trình khai thác hầm lò trong trường hợp khai thác lộ thiên là 91.754 m3/h.

Nếu khai thác lộ thiên, lượng nước chảy vào moong khai thác lớn gấp 5,5 lần khai thác hầm lò. Đó là chưa kể tới lượng nước sông Hồng chảy trực tiếp vào moong vì với bờ dốc công trường như đã tính toán, thì sông Hồng nằm gọn vào vùng moong ( nếu khai thác lộ thiên, sông Hồng phải chảy theo dòng khác ).

Trích trang 29-30, Đề án Phát triển bể than Đồng bằng sông Hồng của Công ty năng lượng sông Hồng, TKV.

Mở bể than 210 tỷ tấn : Lắng nghe phản biện

Tiếp tục đóng góp ý kiến với đề án phát triển bể than đồng bằng sông Hồng, Tuần VN xin trích đăng một số nhận xét của giới chuyên gia.

Ông Dương Hồng Phi, thành viên Hội đồng phản biện VUSTA : Mức độ tin cậy thấp.

Đánh giá trữ lượng, tài nguyên than của bể than đồng bằng sông Hồng cần xem xét lại, mức độ tin cậy còn thấp do :

Tài liệu địa chất đánh giá quy luật phân bố các vỉa than trong hệ tầng Tiên hưng theo đường phương và hướng cắm hầu như chưa có.

Điều kiện cổ địa lý, chế độ kiến tạo trong quá trình tạo than miền võng Hà Nội rất phức tạp. Sự biến đổi về tướng đá trầm tích phổ biến, quyết định mức độ duy trì, ổn định của các vỉa than, hình thái vỉa, chiều dày vỉa, cấu tạo vỉa.

Ví dụ, Khoái Châu trên diện tích 85km2, từ lộ vỉa dưới lớp phủ đến 1200m có 20 vỉa than, trong đó có 5 vỉa có giá trị công nghiệp, chỉ có vỉa 3 là duy trì và tương đối ổn định, các vỉa 14, 15, 17 và vỉa 4 mức độ duy trì, ổn định kém. Tổng chiều dự trính trữ lượng, tài nguyên khoảng 15 – 16m. Hệ số chứa than công nghiệp theo chiều dày cột địa tầng khoảng 1,5% – 1,6%.

Trong khi đó, các vùng còn lại nói trên, có tổng chiều dày than để dự tính tài nguyên dao động từ 35m – 45m, hệ số chưa than 3,5% - 4,5% là quá cao.

Do tính chất cơ lý của các đá sét kết, bộ kết, cát kết, sét than trong hệ tầng chứa than rất mềm yếu và điều kiện Địa chất thủy văn – Địa chất công trình của Hệ tầng Tiên Hương và Đệ Tứ cực kỳ phức tạp nên công nghệ khai thác phải lưu ý.

Các công nghệ khai thác khí hóa than ngầm ở Nga được tác giả nêu trong đề án chỉ đến năm 1990, từ năm 1990 còn khai thác hay đã ngừng và nếu ngừng cần nêu các lý do cụ thể. Trong thuyết minh có đề cập đến công nghệ khai thác khí hóa than ngầm ở Nga và sau này ở Trung Quốc mắc phải sai lầm như Nga.

Vậy nhưng sai lầm này đối với dự án của đề tài có khắc phục được không. Vấn đề này cần phải đề cập một cách đầy đủ trong các dự án thử nghiệm công nghệ khai thác khí hóa than ngầm.

Việc triển khai các đề án khảo sát, thăm dò và thử nghiệm công nghệ khai thác, chế biến, sử dụng than đồng bằng sông hồng là cần thiết. Song vấn đề khai thác cần có sự chuẩn bị, tính toán kỹ lưỡng thận trọng.

Vấn đề quan tâm nhất ở đây là sự sạt lún mặt đất sau khi khai thác thay đổi địa hình địa mạo vùng đồng bằng sông Hồng, nó sẽ không xảy ra sau vài chục năm mà có thể hàng trăm năm sau. Hậu quả ấy cần được suy ngẫm.

PGS, TS. Nguyễn Phương, thành viên VUSTA : Rủi ro có thể xảy ra

Cần đề cập bức tranh tổng quát về tài nguyên than Việt Nam, hiện trạng thăm dò, khai thác, tiêu thụ. Diện tích lựa chọn nghiên cứu thử nghiệm công nghệ khai thác phải bao đảm tính đại diện cho bể than và khả năng thực khi khi triển khai nghiên cứu.

Đề án phát triển trên khu vực đông dân cư; là vựa thóc của Miền bắc. Ở đây có nhiều di tích văn hóa, di tích lịch sử, nhiều khu công nghiệp và gần thủ đô Hà Nội.

Vì vậy, vấn đề cực kỳ quan trọng của dự án là giảm thiểu ảnh hưởng đến dân sinh và xã hội, cần đặc biệt chú ý giải pháp thủ tiêu, xử lý các sự cố và biến động về môi trường có thể xảy ra ngoài dự kiến. Đặc biệt hiện tượng sụt lún nhiều khi nằm ngoài tầm kiểm soát và ngoài mong muốn của chúng ta.

Một vấn đề cần lưu ý là điều kiện địa chất thủy văn – địa chất công trình bể than đồng bằng sông Hồng là hết sức phức tạp. Mặt khác, trên đó là các khu dân cư, khu công nghiệp, là các thành phố, thị xã đông dân cư, hoàn toàn khác so với một số mỏ ở nước ngoài tác giả tham khảo trích dẫn trong đề án này.

Phó viện trưởng Viện KHCN mỏ- TS. Trương Đức Dư : Cân nhắc an ninh lương thực và an ninh năng lượng

Việc khai thác khí hóa than đã được thế giới nghiên cứu từ lâu và đã có khá nhiều dự án thử nghiệm ở các nước. Song hiện nay chỉ tồn tại 1 mỏ khí hóa than tại Uzubekixtan hoạt động từ năm 1960 đến nay.

Ngay cả Trung Quốc là nước phát triển khí hóa than, nhưng tại nhiều mỏ than sâu 700m, họ vẫn thực hiện khai thác hầm lò. Như vậy phải hiểu khí hóa than là công nghệ khai thác đặc biệt mà ở mỏ đó các điều kiện cho phép khai thác hầm lò không thực hiện được hoặc kém hiệu quả.

Với phân tích trên, cho thấy việc khí hóa than ở đồng bằng sông Hồng phải được nghiên cứu chặt chẽ trên cơ sở rõ ràng về điều kiện địa chất, nhất là độ bền vững đá vách vỉa và nước trong khu mỏ. Nếu điều kiện cơ bản trên đảm bảo thì sẽ lập và triển khai dự án thử nghiệm ở quy mô nhỏ. Kết quả thử nghiệm tốt sẽ xem xét khí hóa ở quy mô lớn hơn. Đồng thời xác định mức sâu tối thiểu của vỉa than thực hiện công nghệ khí hóa than, bởi phía trên mặt mỏ là đồng ruộng và các công trình cần bảo vệ. Đó là sự cân nhắc đảm bảo giữa an ninh năng lượng và an ninh lương thực.

Bàn thêm về địa chất thủy văn :

- Mỏ Bình Minh : Tính lượng nước chảy vào mỏ chưa đảm bảo độ tin cậy bởi quan hệ thủy văn giữa sông Hồng với địa tầng khu mỏ rất chặt chẽ: báo cáo chương này tính lượng nước chảy vào mỏ là 5628m3/h, trong thuyết minh tổng thể đề án phát triển bể than đồng bằng sông Hồng ghi “Tổng lượng nước chảy vào công trình khai thác hầm lò là 16.829 m3/h” là không thống nhất.

Theo báo cáo kết quả khảo sát thăm dò năm 2003 do Công ty địa chất Mỏ lập, dự tính lượng nước chảy vào công trình khai thác mỏ hầm lò là 20.096m3/h.

- Mỏ Tây Sa : Việc xác định lượng nước vào mỏ này cũng chưa được tính toán rõ. Báo cáo cũng chưa có nghiên cứu dự báo dịch động đất đá và sụt lún bề mặt mà đưa ngay công nghệ khai thác cơ giới hóa tổng hợp và công suất mỏ 5 triệu tấn/năm bằng 2 lò chợ cơ giới hóa. Như vậy, sự phù hợp công nghệ chưa có luận cứ; Công suất lò chợ như vậy quá lớn, sự phức tạp của địa chất than đồng bằng sông Hồng khó đạt được.

- Mỏ Tiên Dung : Do báo cáo không có phần địa chất nên không biết lượng nước chảy vào mỏ như thế nào, độ bền vững đá vách vỉa ra sao. Tuy nhiên, theo sự hiểu biết chung, than đồng bằng sông Hồng có đá vách vỉa mềm yếu và rất nhiều nước là điều kiện khó khăn để khai thác khí hóa than.