NewYork Paris Hà Nội Khách thứ :

NIỀM TIN TƯƠNG LAI

     

Kỹ thuật nuôi cá lóc

Các loại cá lóc

Cá lóc là loài cá sống phổ biến ở đồng ruộng, kênh, rạch, ao, hồ, đầm, tốc độ sinh trưởng nhanh, thích nghi với mọi môi trường nước (đục, tù, nóng) có thể chịu đựng được ở nhiệt độ 39 - 40°C.

Ở Miền Nam, Cá lóc bông được nuôi trong lồng ( bè ).

Đặc điểm sinh học của cá lóc

1. Là loài cá dữ, phàm ăn, tính ăn rộng : Cá nhỏ ăn : giáp xác, chân chèo, ấu trùng bọ gậy, ấu trùng côn trùng, tôm con, nòng nọc, các loại cá nhỏ khác. Cá trưởng thành ăn tạp: cá, ếch, nhái, tôm...

Chúng ăn mạnh vào mùa hè, khi nhiệt độ giảm xuống dưới 12°C cá ngừng kiếm ăn. Cá béo vào trước mùa đẻ, cá ở vùng nước lợ béo hơn ở vùng nước ngọt.

2. Sinh sản : Cá 1 - 2 tuổi bắt đầu đẻ trứng, có thể đẻ 5 lần/năm. Sau khi đẻ, cá mẹ bảo vệ cá con khoảng một tháng rồi tiếp tục đẻ lần khác. Mùa đẻ ở miền Bắc vào tháng 5 - 8, tập trung vào tháng 4 - 5.

Cá đẻ ở nơi yên tĩnh, có nhiều cây cỏ thực vật thủy sinh, đẻ vào sáng sớm, sau mỗi trận mưa rào 1 - 2 ngày. Trước lúc đẻ, cá làm tổ hình tròn, đường kính tổ khoảng 40 - 50 cm. Ở nhiệt độ 20 - 35°C sau ba ngày nở thành con. Trong môi trường tự nhiên, sau 3 ngày cá con tiêu hết noãn hoàng, lớn dài 4 - 5 cm bắt đầu tách khỏi đàn sống độc lập.

3. Sinh trưởng : Cá lớn nhanh vào mùa xuân hè. Cá lóc 1 tuổi dài 19 - 39 cm, nặng 100 - 750 g. Cá hai tuổi thân dài 38 - 45 cm, nặng 600 - 1400 g. Cá ba tuổi dài 45 - 59 cm, nặng 1.200 - 2.000 g. Cá có thể sống trên 10 năm dài 67 - 85 cm, nặng 7000 - 8000 g.

Cá thích ở nơi có rong đuôi chó, cỏ dừa, tóc tiên, vì nơi này chúng dễ ẩn mình để rình mồi. Mùa hè thường sống ở trên tầng mặt, mùa đông khi nhiệt độ dưới 8°C cá thường xuống sâu hơn, ở nhiệt độ 6°C cá ít hoạt động.

Kỹ thuật nuôi

1. Phân biệt cá đực, cá cái :

- Cá đực : thân dài, thon, đầu to, bụng nhỏ rắn chắc, lỗ sinh dục và lỗ hậu môn riêng biệt.

- Cá cái : thân ngắn, đầu nhỏ, bụng to, mềm sệ xuống, lỗ sinh dục to, lồi gần sát lỗ hậu môn.

2. Kỹ thuật nuôi cá :

Dựa vào tính ăn của cá lóc, có thể nuôi ghép với cá mè, trôi, chép, trắm cỏ, rô phi, diếc để diệt cá tạp đảm bảo hợp lý nguồn thức ăn, cải tạo và nâng cao sức sản xuất của vùng nước. Tuy nhiên, cần chú ý tỉ lệ, mật độ kích cỡ cá thả.

Nuôi cá lóc con : Trước khi thả cá bột vào, phải dọn tẩy ao để sinh vật phù du phát triển mạnh. Mật độ: 6 - 7 vạn con/mẫu. Sau khi thả 7 - 8 ngày chưa cho ăn, có thể vừa bón phân vừa vớt động vật phù du bổ sung vào ao ( 3 - 4 kg động vật phù du / một vạn cá ). 18 - 20 ngày sau cá có màu vàng, trên thân xuất hiện vảy, sau đó cá chuyển màu đen, dài 3 - 6 cm, tỉ lệ sống khoảng 60 - 65%, nuôi tiếp 20 ngày, cá đạt 6 cm, bắt đầu cho ăn tôm, tép, cá con hay thức ăn chế biến có đạm cao.

Nuôi trong 2 tháng, cá giống được 9 - 12 cm, đưa ra ao lớn nuôi thành cá thịt.

Nuôi cá thịt ở ao : Trạm Nghiên cứu cá nước ngọt Đình Bảng, Tiên Sơn, Hà Bắc (nay là Viện Nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản I) đã thí nghiệm nuôi cá lóc với cá rô phi ( dùng cá rô phi làm thức ăn cho cá lóc ).

Ao diện tích : 35 m 2 . Độ sâu: 70 - 80 cm. Mật độ thả: 0,5 - 1 con/m 2 .

Sau 4 tháng nuôi, cá đạt 80 - 100 g/con, con lớn đạt 350 g/con.

Tính ra cứ 4 kg cá rô phi con được 1 kg cá lóc thịt.

Nuôi cá lóc ghép với cá nuôi khác : Nuôi ghép cá lóc với cá mè, trôi, chép, rô phi, diếc. Diện tích ao: 200 m 2 . Trên bờ ao rào bằng phên nứa cao 0,4 m, thả bèo tây chiếm 5% diện tích ao nuôi. Thức ăn bằng phân lợn ủ, mỗi tuần bón 2 lần. Mỗi lần 0,1 - 0,15 kg/m 3 nước. Sau 3 tháng nuôi, cá lóc đạt 147 g/con, cá mè : 120 g/con, cá trôi: 40 g/con, cá rô phi : 70 g/con.

Tìm hiểu thêm : kinh nghiệm nuôi cá lóc thịt ở Trung Quốc

a. Nuôi ghép với cá khác: Nuôi ghép cá lóc với cá mè, trôi, trắm, chép trong ao để tạo điều kiện tốt cho các loài cá nuôi sinh trưởng nhanh.

Ao phải có bờ cao ( bờ cao hơn mặt nước ao 30 - 40 cm ), nước ở ao không rò rỉ, cá lóc cỡ 3 cm, ghép 50 - 300 con/mẫu. Sau 5 - 6 tháng nuôi cá lớn được 0,2 - 0,6 kg/con, tỉ lệ sống 80%. Năng suất cá lóc 20 - 50 kg/mẫu.

b. Nuôi cá lóc là chính : Diện tích ao: 1 - 2 mẫu; Độ sâu: 1,5 - 2 m.

Xung quanh ao thả bèo Nhật Bản rộng 0,8 - 1 m ( dùng cọc và sào ngăn lại ) để phòng cá nhảy đi, tạo môi trường cho cá lóc lớn nhanh.

Mật độ thả : Dựa vào nguồn thức ăn và chất nước để quyết định. Có thể thả 10 con/m 2 ( cỡ 3 cm ). Để tránh tình trạng cá lớn ăn cá bé, bắt cá lớn chuyển sang ao khác , mật độ 2 - 3 con/m² . Nếu nguồn thức ăn phong phú, mật độ có thể dầy hơn.

Nuôi cỡ cá giống 12 - 18 cm/con, cuối năm đạt 0,5 - 0,6 kg/con. Ngoài ra có thể ghép một ít cá mè trắng, mè hoa để cải thiện chất nước.

Luyện cho cá ăn:

Thức ăn gồm :

- Thức ăn sống như: động vật phù du, tôm, tép con, cá con, giun, dòi.....

- Thức ăn chế biến: phối hợp 70% cá tạp nghiền nát, 20% bột đậu khô lạc... 5% men, còn lại là các vitamin, muối khoáng, thuốc kháng sinh.

Cho ăn 2 lần/ngày, sáng và chiều. Số lượng cho ăn bằng 5 - 7% trọng lượng cá, mùa cá sinh trưởng nhanh không cho ăn quá 10% trọng lượng cá. Nếu cho cá ăn thức ăn chế biến, phải tập luyện cho cá ngay từ còn nhỏ. Trong thời gian luyện cho ăn thức ăn chế biến, không được cho ăn thức ăn sống. Nuôi 1 năm cá đạt 0,5 kg/con. Năng suất 300 kg/mẫu.

Quản lý ao nuôi: Cá lóc thịt có thể nhảy cao đến 1,5 m nhất là khi trời mưa hay có dòng nước chảy. Vì vậy phải thăm ao thường xuyên.

Thức ăn phải tươi, trước lúc cho ăn phải vệ sinh sàn cho ăn. Để đảm bảo nước luôn sạch, tốt nhất nên có dòng chảy. Nuôi ở ao có diện tích 3,5 mẫu năng suất đạt 300 kg/mẫu và 50 kg cá mè, là đạt hiệu quả kinh tế cao.

Nuôi cá lóc ở bè

Ở miền Nam, cá lóc con cỡ 3 - 4 cm đem ương, nuôi ở bè rộng 1,5 ( 1,5 - 1 m ) thả 5.000 con, cho ăn bằng cá linh băm nhỏ, phế phẩm ở các chợ, đầu, ruột cá… xay nhuyễn đặt lên tấm vỉ bằng tre. Nuôi đến cỡ 10 - 12 cm chuyển sang bè có kích thước lớn hơn. Thường nuôi 3 tháng đạt 1,2 kg/con.

KS Ngô Trọng Lư

Kỹ thuật nuôi cá lóc trong ao đất

1. Ương cá bột 5 ngày tuổi ( chiều dài khoảng 6 cm ) thành cá giống 60 ngày tuổi ( chiều dài khoảng 6 - 12 cm )

a. Điều kiện ao ương :

- Diện tích 200 - 1000 m2, giữ nước được trong mùa kiệt và không bị nậgp trong mùa lũ. Nguồn nước không bị nhiễm bẩn, nhiễm phèn. Cấp thoát nước chủ động, độ sâu 1,2 - 1,5 m.

- Bón vôi để diệt tạp, diệt mầm bệnh và tăng pH ( không bị phèn ). Liều lượng vôi: 10 - 15 kg/100 m² ao ( ao mới đào ).

b. Bón phân tạo thức ăn tự nhiên :

- Bón phân chuồng ( phân gà, bò, heo....) ủ cho hoai, liều lượng 10 - 15kg/100 m² ao.

- Bón phân đạm ( phân urê ) 300 gram/100 m2 ao, phân lân 100 gr/ 100 m² ao. Khi phân bón lót đã phân hủy hết ( 6-7 ngày ) nước có màu xanh đọt chuối thì tiến hành thả cá vào ương.

c. Mật độ thả ương:

Mật độ thả cá ương từ 5.000 - 10.000 con cá bột/100m² ao. Nếu ương cá bằng vèo đặt trong ao ( có những điều kiện như trên ) mật độ ương là 800 - 1000 con/ 1 m² vèo.

d. Cho ăn và chăm sóc :

- Giai đoạn cá 5 - 15 ngày tuổi: Chủ yếu cho ăn động vật phù du ( trứng nước ), kết hợp với bón phân tạo màu nước xanh đọt trước.

Trong trường hợp thiếu hợp những loại thức ăn trên có thể cho cá ăn cua, cá tạp xay nhuyễn : 1 kg cua, cá tạp/ 10.000 cá con/ngày.

- Giai đoạn cá 18 - 25 ngày tuổi: Vẫn sử dụng những loại thức ăn trên và bổ sung thêm Vitamin C, Vitamin ADE. Lúc này cá đã có màu vàng, trên thân xuất hiện vẫy, cá mẹ không còn quanh quẩn bên cá con và cá con cũng bắt đầu tách đàn sống độc lập.

- Giai đoạn cá 25 - 35 ngày tuổi: Cá đã có màu đen giống cá trưởng thành, chiều dài 2-6 cm. Ăn được cá tạp xay nhuyễn, lượng cho ăn khoảng 10% trọng lượng thân cá. Tỉ lệ sống đến giai đoạn này khoảng 80%.

- Giai đoạn cá 35 - 60 ngày tuổi: Thân dài 6-12 cm đạt tiêu chuẩn cá giống. Cho cá ăn các loại cá tạp, tôm tép, liều lượng 8% trọng lượng cá. Tỉ lệ sống trong giai đoạn này khoảng 60%. Lúc này đã có thể tuyển lựa cá đồng cở đưa ra ao lớn nuôi thành cá thịt.

2. Nuôi cá lóc thương phẩm :

- Vì là loài cá dữ chuyên bắt mồi sống nên giai đoạn nuôi thịt không cần bón phân gây màu nước. Trong ao nuôi, ngoài sử dụng các loại cá tạp, cá còn có thể ăn các thức ăn chế biến có hàm lượng đạm cao, lượng cho ăn chiếm từ 5 - 6% trọng lượng cá.

- Mật độ thả nuôi: 8 - 10 con/1m² ao.

- Nuôi 8 tháng cá đạt trọng lượng trung bình 600 gr/con.

- Hệ số thức ăn của cá lóc là 5 - 6 kg thức ăn/1 kg cá.

3. Nuôi cá lóc trong bè :

Chọn những nơi có chất nước tốt, không bị ô nhiễm có mực nước sâu. Cần tránh nững nơi có tàu bè qua lại, đặc biệt cần tránh xa nguồn nước thải của các nhà máy công nghiệp hóa chất, nhà máy sản xuất thuốc trừ sâu.....

Để giảm hao hụt và thuận tiện khi nuôi nên thả cá lớn ( 15 - 30 gr/con đối với cá lóc bông, 10 - 15 gr/con đối với cá lóc thường ) và cá đã quên sử dụng thức ăn chế biến. Nếu cá nhỏ hơn cần có bè nuôi riêng cho đến khi cá đạt kích thước trên. Mật độ thả nuôi trung bình từ 120 - 130 con/m3. Kích cở cá đều nhau, khỏe mạnh, cơ thể cân đối.

Về vấn đề lâu dài cần phải dùng thức ăn chế biến hoặc thức ăn tự chế để nuôi cá lóc trong bè. Bởi vì loại thức ăn này dễ bảo quản, chuyên chở thuận tiện và tận dụng được nguồn phế liệu phụ phẩm của nhà máy chế biến.

Khả năng sử dụng thức ăn của cá thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của cơ thể cá. Lúc cá còn nhỏ cần cho ăn nhiều hơn cá lớn, có thể tham khảo theo bảng sau:

Kích cở cá giống (gr/con) -------------- Khẩu phần ăn (%)/ trọng lượng cá

<10 -------- 10-12

10-20 ---------- 8-10

20-30------- 5-8

30-50--------- 5-8

50-100 ----------- 5-8

>100 ------------- 3-5

Cần thường xuyên kiểm tra bè nuôi nhất là nơi có đặt “ mặt đục” bằng lưới, dây neo. Đồng thời tiến hành làm vệ sinh bè để được thông thoáng, không thả cá mật độ quá dày.

II. Phòng trị bệnh cá lóc

- Cá ương ở giai đoạn dưới 25 ngày tuổi, bệnh thường gặp là bệnh do ký sinh trùng gây nên, phòng bệnh này bằng cách định kỳ 10-15 ngày bón vôi bột ( CaCO3 ) liều lượng 3 - 4kg/100m2 hòa với nước, lóng trong, sau đó lấy nước trong đó tạt vào ao (làm nhiều lần), đối với bè treo túi vôi thì liều lượng khoảng từ 2-4kg/10m3. Giữ cho nước có màu vàng lợt hoặc xanh đọt chuối. Cấp, thay nước và tạo dòng chảy để đảm bảo đủ lượng oxy cho ao, tránh ương mật độ dày. Thường xuyên dùng muối ăn tưới ao, liều lượng 1-2 kg/m3 nước ao.

- Cá ương ở giai đoạn lớn hơn 25 ngày tuổi đến 60 ngày tuổi: Ở giai đoạn này cá hao hụt nhiều nhất. Bệnh thường gặp là viêm ruột do cá chuyển loại thức ăn.

Biện pháp phòng: Thường xuyên trộn muối ăn vào cá mồi trước khi xay nhuyễn, bón vôi bột 3 - 4 kg/100m2 ao ( hòa nước lóng trong, lấy nước trong tạt ao ). Trộn thuốc Sunfadimezin: 2gr + Vitamine C: 1 gr vào 1kg cá mồi, mỗi tháng cho ăn liên tục 3 ngày.

- Giai đoạn nuôi cá thịt: Thường gặp bệnh viêm ruột, ghẻ lở, rận cá.

Phòng bệnh : Giữ vệ sinh ao, thường xuyên bón vôi như trên.

Trị bệnh : ( Sunfa 20gr + Oxytetra 5gr )/100 kg cá. Liên tục 6 ngày.

Lưu ý : P trộn thuốc vào bột gòn, sau đó rắc lên thức ăn đã xay nhuyễn. trong quá trình nuôi nên xổ giun cho cá ( có thể dùng thuốc xổ giun cho heo, liều sử dụng bằng ½ ).