NewYork Paris Hà Nội Khách thứ :

NIỀM TIN TƯƠNG LAI

     

Những Điều Cần Biết Về Ung Thư - BS Trần Lý Lê , Kiều bào Mỹ

Tài liệu của Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ - Ấn bản tháng Mười, 2006

A. Ung thư là gì ?

Ung thư là tên gọi chung của các bệnh tật từ tế bào - đơn vị căn bản của sự sống - mà ra. Muốn hiểu về ung thư, ta cần biết tại sao tế bào bình thường, khoẻ mạnh lại trở nên ung hoại. Cơ thể con người được cấu tạo bởi nhiều bộ phận, mỗi bộ phận có một hoặc nhiều loại tế bào. Thông thường, tế bào chỉ sinh sôi nảy nở khi cần thiết. Tế bào khi già lão sẽ chết, và được thay thế bởi những tế bào mới. Sự sinh sản có trật tự này giúp cơ thể duy trì sức khoẻ. Tuy nhiên, đôi khi sự sinh sản trật tự này bị đảo lộn, tế bào cứ tiếp tục sinh sôi mặc dù cơ thể không cần đến; những tế bào thừa thãi này gom lại thành một khối mô, gọi là bướu hay u.

Bướu có thể lành hoặc độc :

a) Bướu lành ( lành tính ) :

- Bướu lành không phải là ung thư, không gây tử vong.

- Nói chung, bướu lành có thể được cắt bỏ, và thường không tái sinh.

- Những tế bào trong bướu lành không ăn lậm đến các mô lân cận.

- Những tế bào trong bướu lành không lan ra những bộ phận khác trong cơ thể.

b) Bướu độc ( ác tính ) : Bướu độc cũng được gọi là ung thư.

- Bướu độc có thể gây tử vong.

- Bướu độc thường được cắt bỏ nhưng có thể tái sinh.

- Những tế bào trong bướu độc có thể ăn sâu và hủy hoại những tế bào, bộ phận chung quanh. Tế bào ung thư có thể thoát ra ngoài bướu, vào dòng máu hoặc dòng bạch huyết ( lymphatic system ) và lan tràn từ nơi ung hoại đầu tiên ( primary site ) qua những bộ phận khác, tạo thành những bướu độc mới. Sự lan tràn của tế bào ung thư gọi là metastasis. Ung thư được đặt tên theo những bộ phận trong cơ thể hoặc những tế bào nơi sự ung hoại khởi đầu. Chẳng hạn như ung thư khởi đầu từ phổi được gọi là ung thư phổi, loại ung thư khởi đầu từ tế bào ( tạo ra màu nâu đen ) trong da, melanocytes, được gọi là melanoma. Khi ung thư lan từ nơi khởi thủy đến những bộ phận khác, bướu độc mới sẽ có cùng một loại tế bào bất thường và có cùng một tên gọi như bướu độc nguyên thủy. Thí dụ, khi ung thư phổi lan đến não bộ, tế bào ung thư tìm thấy trong não bộ là những tế bào phổi đã ung hoại. Biến chứng này gọi là ung thư phổi đã lan tràn (không phải là ung thư não bộ), hay ung thư phổi di căn. Khi ung thư lan tràn, ta sẽ tìm thấy tế bào ung thư trong những hạch bạch huyết cầu lân cận. Nếu ung thư đã vào đến những hạch bạch huyết cầu này thì có nghĩa là ung thư có thể đã lan đến những bộ phận khác như gan, xương, hay não bộ.

B. Những yếu tố gia tăng tỷ lệ ung thư

Y học chưa giải thích được tại sao người này bị ung thư mà người khác không bị ung thư. Nhưng qua việc nghiên cứu, các chuyên gia đã tìm thấy một số yếu tố gia tăng tỷ lệ ung thư ( risk factors ); những yếu tố này bao gồm :

- Tuổi tác .

- Thuốc lá, thuốc lào.

- Ánh nắng .

- Một số hóa chất.

- Một số vi khuẩn và siêu vi khuẩn.

- Một vài nội tiết tố.

- Thân nhân bị ung thư .

- Rượu.

- Thiếu dinh dưỡng, thiếu vận đông và bệnh mập phì.

Có những yếu tố có thể tránh, nhưng cũng có những yếu tố không thể ngăn ngừa như y sử của gia đình. Hãy làm những việc có thể làm để duy trì sức khỏe, tránh các yêu tố gia tăng tỷ lệ ung thư.

Nếu lo âu về chứng ung thư, ta nên thảo luận với bác sĩ.

Qua thời gian một số yếu tố tác động lẫn nhau khiến các tế bào lành mạnh trở nên hư hoại. Khi nghĩ đến các yếu tố gây ung thư, cần nhớ những chi tiết căn bản sau đây :

- Không phải bất cứ thứ gì cũng gây ung thư.

- Ung thư không do thương tích.

- Ung thư không phải là bệnh truyền nhiễm, lây từ người này sang người khác. Tuy nhiên một số vi khuẩn và siêu vi khuẩn gây nhiễm trùng và là yếu tố gia tăng tỷ lệ của một vài loại ung thư, nói chung, ung thư không lây bệnh.

- Có một số yếu tố kể trên không có nghĩa là là sẽ bị ung thư .

1) Tuổi tác :

Yếu tố gia tăng tỷ lệ ung thư quan trọng nhất là tuổi già. Hầu hết các ung thư bộc phát trong tuổi 65 trở lên, nhưng mọi tuổi đều có thể bị ung thư kể cả trẻ em.

2) Thuốc lào, thuốc lá, gọi chung là “tobacco” :

Ngưng dùng thuốc lào thuốc lá là việc dễ thực hiện nhất để ngăn ngừa ung thư. Mỗi năm khoảng 180 ngàn người Hoa Kỳ chết vì các loại ung thư liên quan đến việc dùng thuốc lào, thuốc lá. Dùng thuốc lào thuốc lá hoặc sống trong môi trường thường xuyên có khói thuốc là yếu tố gia tăng tỷ lệ ung thư.

Người hút mỗi ngày 1 bao thuốc lá có xác suất bị ung thư phổi 10 lần cao hơn so với những người không hút thuốc lá. Ngoài ung thư phổi, người hút thuốc lá còn có thể bị ung thư miệng, cuống họng, thực quản, bàng quang, dạ dày, tụy tạng hoặc cổ tử cung. Họ có tỷ lệ ung thư bạch huyết cao hơn những người không hút thuốc lá.

Những người dùng thuốc lá không khói, nhai thuốc lào, có tỷ lệ ung thư miệng cao hơn những người khác.

3) Ánh nắng :

Tia cực tím từ mặt trời và các loại máy tạo ánh nắng ( giúp cho da nâu hồng ) khiến da lão hóa nhanh chóng và gây hư hại tế bào da đưa đến ung thư da.

Tránh nắng và những loại máy móc phát ra tia cực tìm để bảo vệ da. Tránh ánh nắng giữa ngày, mặc quần áo dài che kín chân tay, đội mũ nón và kính mát để bảo vệ da và mắt. Dùng kem chống nắng với sun protective factor, SPF it nhất là 15.

4) Tia phóng xạ ( ionizing radiation ) :

Tia phóng xạ gây hư hoại tế bào và có thể dẫn đến ung thư. Loại phóng xạ này từ đến mặt đất từ các hành tinh khác, từ những máy móc dùng tia phóng xạ để chẩn bệnh ( X ray ) hoặc chữa bệnh ( radiation therapy ), radon, bom nguyên tử hoặc từ các nhà máy nguyên tử lực.

Người bị nhiễm phóng xạ có tỷ lệ ung thư bạch huyết, tuyến giáp trạng, vú, phổi và dạ dày cao hơn những người khác.

Radon là một loại phóng xạ trong thể khí không màu, không mùi vị, đến từ đất đá. Thợ hầm mỏ có thể bị nhiễm radon. Tại một vài nơi, radon từ lòng đất lan vào trong nhà. Radon gia tăng tỷ lệ ung thư phổi.

Y học dùng quang tuyến để chụp một vài bộ phận trong cơ thể, để chẩn đoán thương tích tại xương và một vài bộ phận khác. Bác sĩ cũng dùng xạ trị để chữa ung thư. Phóng xạ từ việc chụp quang tuyến là một lượng rất nhỏ, từ máy xạ trị lượng phóng xạ cao hơn. Tuy nhiên, khi so sánh lợi và hại, việc sử dụng phóng xạ này có lợi nhiều hơn cho bệnh nhân.

5) Hóa chất và các chất khác :

Thợ sơn, thợ nề và những người làm việc trong môi trường có hóa chất có thể có tỷ lệ ung thư cao hơn vì tiếp xúc với asbestos, benzene, benzidine, cadmium, nickel hoặc vinyl chloride. Cần theo lời chỉ dẫn của nhà sản xuất và dùng quần áo bọc ngoài, giầy dép, mũ nón, mặt nạ để bảo cơ thể.

6) Vi khuẩn và siêu vi khuẩn :

Nhiễm trùng do vi khuẩn hoặc siêu vi khuẩn sau có thể gia tăng tỷ lệ ung thư:

- Human Papillomaviruses (HPVs): Nhiễm trùng HPV là nguyên nhân chính gây ung thư cổ tử cung, và cũng là yếu tố gia tăng tỷ lệ ung thư của các loại ung thư khác .

- Siêu vi khuẩn Hepatitis B và Hepatitis C: Ung thư gan có thể bộc phát sau nhiều năm bị viêm gan do nhiễm trùng bởi 2 loại siêu vi khuẩn kể trên .

- Siêu vi khuẩn Human T-cell leukemia/lymphoma (THLV-1); Nhiễm trùng bởi THLV-1 gia tăng tỷ lệ ung thư bạch huyết và lymphoma .

- Siêu vi khuẩn Human immunodeficiency (HIV): HIV gây ra chứng bệnh AIDS, những người bị AIDS có tỷ lệ ung thư lymphoma và Karposi sarcoma cao hơn những người khác.

- Siêu vi khuẩn Epstein-Barr (EBV): gia tăng tỷ lệ ung thư lymphoma.

- Siêu vi khuẩn Human herpesvirus 8 (HHV8): gia tăng tỷ lệ ung thư Kaposi sarcoma.

- Vi khuẩn Helicobacter pylori: Vi khuẩn này gây lở dạ dày và có thể gây ung thư dạ dày và lymphoma tại dạ dày .

HPV, viêm gan B và C, HIV gây nhiễm trùng qua việc giao hợp với người bị nhiễm trùng, cần dùng những phương pháp phòng ngừa. Không dùng chung kim chích với người khác, thân hoặc sơ. Nên chích ngừa chứng viêm gan B.

7) Nội tiết tố :

Bác sĩ có thể dùng nội tiết tố ( như estrogen và progesterone ) chữa những triệu chứng do sự tắt kinh như nóng lạnh, khô âm đạo, và loãng xương. Các nội tiết tố này có thể gia tăng tỷ lệ ung thư vú, bệnh tim mạch, và đông máu.

Khi quý bà muốn dùng nội tiết tố, cần thảo luận sự lợi / hại với bác sĩ.

Thuốc Diethylstillbestrol (DES), một loại estrogen, trước đây được dùng để giảm ói mửa khi thai nghén: DES gia tăng tỷ lệ ung thư vú, gia tăng tỷ lệ ung thư cổ tử cung của con gái của những phụ nữ dùng thuốc này.

8) Thân nhân bị ung thư :

Hầu như mọi loại ung thư đến từ sự thay đổi (biến thái, mutation) của di thể. Một tế bào lành mạnh có thể trở thành tế bào ung thư sau khi một số thay đổi diễn tiến tại di thể. Thuốc lá, thuốc lào, một số vi khuẩn hoặc những yếu tố trong nếp sống hằng ngày có thể tạo ra sự thay đổi tại di thể.

Một số thay đổi trong di thể có thể truyền từ cha mẹ sang con cái. Sự thay đổi này hiện diện trong mọi tế bào của đứa con ngay khi chào đời. Di truyền tính ung thư không xuất hiện thường xuyên, chỉ bộc phát trong một số gia tộc, và liên quan đến các di thể truyền từ cha mẹ sang con cái. Ngoài ra những yếu tố khác trong môi trường sinh sống cũng có thể ảnh hưởng đến sự thay đổi tại di thể này.

9) Rượu :

Uống trên 2 ly rượu mỗi ngày gia tăng tỷ lệ ung thư miệng, cuống họng, gan, thực quản, và vú. Uống cáng nhiều rượu, tỷ lệ ung thư càng cao, nhát là với những người hút thuốc lá.

10) Nếp sống :

Thói quen ăn uống thiếu dinh dưỡng, ít vận động hoặc chứng mập phì có thể gia tăng tỷ lệ của một vài loại ung thư. Chẳng hạn như việc ăn uống thường xuyên thức ăn, đồ uống có nhiều chất béo sẽ gia tăng tỷ lệ ung thư ruột già, tử cung và tuyến tiền liệt. Kém vận động và mập phì gia tăng tỷ lệ ung thư vú, ruột già, thực quản, thận và tử cung.

Nên ăn uống nhiều rau trái. Thức ăn đầy đủ dinh dưỡng gồm có chất xơ, sinh tố và khoáng chất. Vận động thường xuyên giúp duy trì cân lượng, không bị mập phì.

C. Truy tìm ung thư:

Đôi khi ta có thể tìm ra chứng ung thư trước khi phát bệnh nghĩa là có triệu chứng. Việc thử nghiệm để tìm ung thư khi chưa có triệu chứng nào được gọi là “screening”.

Thử nghiệm ung thư giúp bác sĩ tìm thấy và chữa trị một vài loại ung thư sớm. Nói chung việc chữa trị hiệu quả hơn khi tìm thấy ung thư trong thời kỳ bắt đầu. Các loại thử nghiệm được dùng rộng rãi để truy tìm ung thư vú, cổ tử cung, ruột già và trực tràng:

- Ung thư vú :

Mammogram là phương cách thông dụng nhất để truy tìm ung thư vú. Mammogram là một loại hình quang tuyến của vú. Theo Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ, (National Cancer Institute, NCI) phụ nữ từ 40 tuổi trở lên nên chụp mammogram mỗi năm. Phụ nữ có những yếu tố gia tăng tỷ lệ ung thư nên thảo luận với bác sĩ, dù trong tuổi 30.

- Ung thư cổ tử cung :

Bác sĩ dùng Pap test ( còn gọi là Pap smear ) để truy tìm chứng ung thư cổ tử cung.Tế bào được lấy ra từ cổ tử cung và dùng kính hiển vi để quan sát xem những tế bào có thay đổi hoặc trở nên bất thường, kể cả những thay đổi do HPV. Phụ nữ nên bắt đầu thử Pap test 3 năm sau khi bắt đầu giao hợp, hoặc 21 tuổi. Mọi phụ nữ nên thử Pap test ít nhất mỗi 3 năm một lần.

- Ung thư ruột già và trực tràng :

Một số loại thử nghiệm được dung để truy tìm “polyps” ( những “túi” tế bào mới xuất hiện trong ruột già ), ung thư hoặc những chứng bệnh khác tại ruột già và trực tràng. Những người vào tuổi 50 trở lên, cần đi thử nghiệm. Nếu có thân nhân bị ung thư ruột già, hoặc có những yếu tố làm gia tăng tỷ lệ của ung thư, cần thảo luận với bác sĩ, bất kể ở tuổi nào, để được thử nghiệm sớm. Một hoặc nhiều phương cách thử nghiệm sau được áp dụng:

1) Máu lẫn trong phân: Đôi khi bướu hoặc polyp xuất huyết, máu lẫn với phân. Cách thử nghiệm này có thể khám phá một lượng máu dù rất nhỏ lẫn trong phân.

2) Sigmoidoscopy (nội soi phần ruột già có tên sigmoid): Bác sĩ dùng một cái ống nhỏ, mềm, đầu ống là một ngọn đèn để quan sát trực tràng và phần dưới ruột già (sigmoidscope). Bác sĩ có thể cắt bỏ polyp nếu tìm thấy qua dụng cụ này.

3) Colonoscopy (nội soi toàn thể ruột già): Bác sĩ dùng dụng cụ tương tự như sigmoidoscope nhưng dài hơn kể trên để quan sát các phần ruột già. Khi tìm thấy những polyp, bác sĩ cắt bỏ và đem thử nghiệm dưới kính hiển vi.

4) Double-contrast barium enema: Bệnh nhân "rửa ruột" bằng chất lỏng chứa barium, và một lượng không khí được bơm vào ruột già. Bác sĩ chụp nhiều hình quang tuyến, barium và không khí giúp bác sĩ quan sát hình thể ruột già trên những tấm phim.

5) Rectal Exam: Khám nghiệm trực tràng là một phần của chương trình khám bệnh định kỳ. Bác sĩ đeo găng dùng ngón tay đưa qua hậu môn truy tìm những khối u nằm ở vùng hậu môn, trực tràng.

Có một số thử nghiệm khác đang được sử dụng trong vòng thí nghiệm, ta chưa có kết quả chắc chắn về những loại thử nghiệm này, hiệu quả ra sao, có giúp tìm ra ung thư sớm hay không và nhất là có kéo dài mạng sống con người hay không.

Bác sĩ khi khám bệnh sẽ tìm kiếm những yếu tố liên quan đến ung thư như tuổi thọ, tình trạng sức khoẻ của thân nhân ( có ung thư hay không ), cách sinh sống, ăn uống, hút hoặc nhai thuốc lào thuốc lá... trước khi áp dụng nhưng phương pháp thử nghiệm thích hợp. Đây là lúc ta nên đặt câu hỏi về những phương pháp thử nghiệm nếu chưa hiểu rõ tại sao những phương cách này được áp dụng.

Những câu hỏi cho bác sĩ :

1. Bác sĩ dùng loại thử nghiệm nào cho tôi ? Tại sao ?

2. Loại thử nghiệm này tốn bao nhiêu tiền ? Bảo hiểm của tôi có trả phí tổn không ?

3. Thử nghiệm có đau không ? Có nguy hiểm gì không ?

4. Bao nhiêu lâu sau khi thử nghiệm thì có kết quả ?

5. Nếu thử nghiệm có kết quả bất thường, làm thế nào để tôi biết tôi vị ung thư ?

D. Triệu chứng

Ung thư có thể gây ra một hoặc nhiều triệu chứng sau đây :

- Bướu, u trong vú hoặc bất cứ bộ phận nào trong cơ thể .

- Sự xuất hiện của mụt đen trên da hay sự thay đổi của những mụt đen ấy .

- Vết lở không lành .

- Ho không dứt, khản tiếng lâu không khỏi .

- Sự thay đổi của bộ tiêu hóa ( táo bón hoặc tiêu chảy ) và bộ tiết niệu ( đi tiểu khó khăn, nước tiểu có máu...) .

- Ăn khó tiêu, nuốt không trôi, nghẹn thức ăn .

- Xuống hoặc lên cân không có lý do .

- Xuất huyết .

- Mệt mỏi, yếu đuối.

Hầu hết những triệu chứng này không do ung thư, mà có thể do bướu lành hoặc những chứng bệnh khác. Hãy đi khám bệnh sớm khi có một trong những triệu chứng trên. Đừng chờ đợi, bệnh tật khi khám phá sớm, việc chữa trị sẽ hiệu quả hơn.

Thông thường, ung thư trong thời kỳ bắt đầu không gâyđau đớn. Khi có triệu chứng, cần đi khám bệnh sớm, đừng chờ cho đến khi thân thể thấy đau đớn.

E. Chẩn đoán

Khi có triệu chứng hoặc các thử nghiệm tình nghi ung thư, bác sĩ cần tìm kiếm xem những triệu chứng xuất phát từ ung thư hay những chứng bệnh khác. Bác sĩ có thể dùng một hoặc nhiều phương pháp chẩn bệnh sau khi khám bệnh.

Các loại thử nghiệm :

Thử nước tiểu, máu hoặc những chất lỏng khác trong cơ thể giúp bác sĩ định bệnh. Các loại thử nghiệm này cũng cho thấy sự hoạt động của các bộ phận như thận. Hàm lượng cao của một vài chất có thể là dấu hiệu của ung thư. Những đặc chất này được gọi là “tumor markers”. Tuy nhiên kết quả thử nghiệm bất thường không nhất thiết là ung thư. Bác sĩ không thể căn cứ vào các thử nghiệm kể trên để quyết đoán là ung thư, việc chẩn bệnh sẽ bao gồm kết quả của nhiều phương pháp khác nhau.

Hình ảnh ( imaging )

Cách thử nghiệm dùng máy móc chụp những bộ phận trong cơ thể, truy tìm cá khối u. Có nhiều loại hình ảnh:

1. X-rays :

Chụp quang tuyến là cách thông thường nhất để quan sát bộ phận và xương trong cơ thể.

2. Computerized Tomography Scan ( CT Scan ) :

Máy chụp quang tuyến chụp nhiều lần một bộ phận; các hình ảnh này được liên kết với nhau qua máy điện toán. Bác sĩ có thể dung phẩm (contrast) để tạo hình ảnh rõ ràng hơn.

3. Radionuclide scanning :

Bệnh nhân uống hoặc chích một dung dịch chứa chất phóng xạ, những chất phóng xạ này theo máu luân lưu và cô đọng tại những nơi có tế bào ung thư. Bác sĩ dùng dụng cụ dò tìm (scanner) và đo lường lượng chất phóng xạ. Máy dò tạo ra hình ảnh của các bộ phận có chất phóng xạ.

4. Ultrasound ( Siêu Âm ):

Siêu âm phát ra từ dụng cụ này dội lại trên màn ảnh, máy điện toán dung những âm thanh này để tạo ra hình ảnh của bộ phận được thử nghiệm gọi là “sonogram”.

5. Magnetic Resonance Imaging (MRI):

Từ trường nối với máy điện toán tạo ra những hình ảnh chi tiết về bộ phận trong cơ thể, bác sĩ có thể quan sát cá hình ảnh nay và có thể làm phó bản.

6. PET Scan:

Bệnh nhân được chích một lượng phóng xạ, một dụng cụ chụp hình ảnh của những hóa chất trong cơ thể. Tế bào ung thư đôi khi xuất hiện trong những phản ứng hóa học này.

Biopsy ( Trích Mô, Sinh Thiết )

Với một số ngoại lệ, bác sĩ thường cần trích mô để chẩn đoán ung thư. Để trích mô, bác sĩ lấy ra một mảnh mô và gửi đến phòng thí nghiệm. Bác sĩ Bệnh Lý (pathologist) khám xét những tế bào dưới kính hiển vi. Việc trích mô được thực hiên qua nhiều cách :

- Bằng kim rỗng ruột ( needle aspiration ) bác sĩ rút tb hoặc chất lỏng .

- Bằng cách nội soi : Bác sĩ dùng dụng cụ nội soi để quan sát và lấy ra một mảnh mô khi thấy ung bướu. .

- Giải phẫu ( surgical biopsy ) : Bác sĩ có thể lấy ra cả cái bướu (excisional biopsy) hoặc chỉ lấy ra một mảnh nhỏ của khối u (incisional biopsy) .

Những câu hỏi cho bác sĩ trước khi trích mô :

1. Tôi cần đi trích mô ở đâu ?

2. Việc này lâu hay mau ?

3. Trích mô có nguy hiểm không ? Có chảy máu hoặc nhiễm trùng sau khi trích mô không ?

4. Bao nhiêu lâu thì có kết quả ?

5. Nếu tôi bị ung thư, ai sẽ là người báo tin và sẽ cho tôi bước kế tiếp ?

F. Định Kỳ ( staging ) :

Để sửa soạn một chương trình trị liệu hiệu quả, bác sĩ cần biết rõ ung thư đã đến thời kỳ nào. Hầu hết các loại ung thư, việc định kỳ dựa trên kích thước của khối u, và mức lan tràn của ung thư đến hạch bạch huyết hoặc các bộ phận khác. Bác sĩ có thể dùng các loại thử nghiệm như X-rays, CT scan… để định kỳ ung thư.

G. Chữa trị :

Bệnh nhân bị ung thư thường muốn dự phần quyết định việc trị liệu của mình. Điều dễ hiểu là họ muốn biết rõ ràng các dữ kiện, chi tiết về chứng bệnh và các cách trị liệu sẵn có. Tuy nhiên việc mất bình tĩnh và sự loa âu hoảng hốt về chưng bệnh khiến bệnh nhân tê liệt tâm thần, không thể đặt câu hỏi với bác sĩ. Vì thế bệnh nhân nên sắp sẵn một danh sách các câu hỏi về những điều muốn biết. Để ghi nhớ tất cả mọi chi tiết trong cuộc thảo luận với bác sĩ, bệnh nhân nên mang theo sổ tay để ghi chép, đi cùng với thân nhân, nhờ họ ghi chép, hoặc xin phép thu âm buổi nói chuyện với bác sĩ.

Bác sĩ có thể chuyển bệnh nhân đến bác sĩ chuyên môn, hoặc bệnh nhân có thể nhờ bác sĩ giới thiệu đến bác sĩ chuyên môn.

Ý kiến thứ nhì ( Second Opinion )

Để an tâm hơn hoặc tìm hiểu kỹ càng hơn về bệnh trạng, bệnh nhân có thể lấy ý kiến thứ nhì. Nhiều hãng bảo hiểm sẽ trả chi phí cho việc lấy ý kiến thứ nhì nếu bác sĩ chính giới thiệu. Lấy ý kiến từ một bác sĩ chuyên khoa khác có thể cần một vài tuần lễ, khoảng thời gian này thường không ảnh hưởng đến hiệu quả của việc chữa trị. Đôi khi bệnh nhân không thể chờ đợi và không nên chờ đợi, vì thế nên thảo luận với bác sĩ về khoảng thời gian chờ đợi này.

Có nhiều cách để lấy ý kiến thứ nhì :

1. Qua sự giới thiệu của bác sĩ chính .

2. Qua “data bank” của Viện Ung Thư Quốc Gia : Điện thoại 1-800-4-CANCER; hoặc http://www.cancer.gov.

3. Qua Y Sĩ Đoàn ( Medical Society ), bệnh viện hoặc trường Y Khoa địa phương.

Cách chữa trị

Cách chữa trị ung thư tùy thuộc vào loại ung thư, bộ phận nào, vào thời kỳ thứ mấy, và tình trạng sức khoẻ của bệnh nhân. Cùng một chứng bệnh nhưng bệnh nhân có thể được chữa trị khác nhau vì một hoặc nhiều yếu tố trên. Bình thường, mục đích của việc chữa trị là dứt bệnh ung thư; đôi khi, mục đích của việc chữa trị là để ngưng sự lan tràn của ung thư hoặc để giảm các triệu chứng của ung thư. Việc chữa trị có thể thay đổi qua thời gian.

Hầu hết mọi cuộc chữa trị đều bao gồm giải phẫu, quang tuyến hoặc hóa chất trị liệu, đôi khi bao gồm nội tiết tố trị liệu hoặc sinh hóa tố trị liệu và cả việc ghép tế bào gốc (stem cell transplantation) nếu bệnh nhân dùng một lượng hóa chất hoặc phóng xạ cao.

Có loại ung thư được chữa trị hiệu quả qua 1 cách chữa trị, có loại ung thư cần nhiều cách chữa trị.

Việc chữa trị có thể tại chỗ, một vị trí (local) hoặc toàn diện cả cơ thể (systemic).

Chữa trị tại chỗ cắt bỏ hoặc diệt ung thư tại một vị trí trong cơ thể. Giải phẫu cắt bỏ khối u là một cách chữa trị tại chỗ. Xạ trị hay dùng phóng xạ để diệt hoặc thu nhỏ khối u cũng là một cách chữa trị tại chỗ.

Chữa trị toàn diện là cách dùng máu đưa dược chất đi khắp cơ thể để diệt tế bào ung thư tại nhiều nơi trong cơ thể. Hóa chất, nội tiết tố, sinh hóa tố trị liệu là những cách chữa trị toàn diện.

Bác sĩ có thể giải thích chi tiết về cách chữa trị và kết quả mong muốn, bệnh nhân và bác sĩ có thể thảo luận và đồng ý về một chương trình trị liệu.

Ung thư trị liệu có thể gây hư hoại đến những tế bào và mô lành mạnh, và thường có phản ứng phụ. Phản ứng phụ thường tùy thuộc vào loại trị liệu và mức độ trị liệu. Phản ứng phụ không đồng nhất trong mọi bệnh nhân, và có thể thay đổi từ lần chữa trị này sang lần chữa trị khác.

Trước khi chữa trị, bác sĩ và những chuyên viên trị liệu như dinh dưỡng, y tá, vật lý trị liệu… sẽ giải thích cặn kẽ về phản ứng phụ và hướng dẫn cách giảm bớt phản ứng phụ.

Trong bất cứ thời kỳ nào của ung thư cũng có các loại trị liệu phụ thuộc để giàm phản ứng phụ, giảm đau và các triệu chứng khác cũng như sự giúp đỡ về tâm thần.

Bệnh nhân có thể hỏi bác sĩ về các chương trình trị liệu còn nằm trong việc khảo cứu hay “clinical trial”.

Bệnh nhân có thể đặt những câu hỏi sau với bác sĩ :

- Tôi bị bệnh gì ? ( Tên của chứng ung thư, diagnosis ) .

- Chứng ung thư đã lan chưa ? lan đến đâu ? ung thư vào thời kỳ thứ mấy ?

- Mục đích của việc trị liệu là gì ? Tôi nên lựa chọn cách trị liệu nào ? Bác sĩ đề nghị phương cách nào ? Lý do tại sao ?

- Sự nguy hiểm và lợi ích của mỗi cách trị liệu ?

- Nếu tôi bị đau, bác sĩ sẽ giúp tôi bằng cách nào ?

- Những sinh hoạt hằng ngày của tôi sẽ bị ảnh hưởng ra sao ?

- Phương cách chữa trị này có ảnh hưởng đến việc sinh sản không ? Nếu có, có cách nào ngăn ngừa không ? Tôi có cần dự trữ trứng ( hay tinh trùng ) không ?

- Cách chữa trị này sẽ kéo dài bao nhiêu lâu ? Phải mất bao lâu tôi mới được bình phục ?

- Chi phí chữa trị sẽ lên đến bao nhiêu ? Bảo hiểm của tôi có trả chi phí không ?

- Ai có thể giúp tôi xin tài trợ từ bên ngoài ?

- Có cách trị liệu nào mới không ? Việc thử nghiệm y tế ( clinical trial ) có thích hợp với tôi không ?

Giải Phẫu

Hầu như mọi trường hợp, bác sĩ giải phẫu đều cắt bỏ những tế bào, phần bộ phận bị ung hoại và có thể cả những tế bào và hạch bạch huyết lân cận để ngăn ung thư tái phát.

Biến chứng của giải phẫu tùy thuộc vào nhiều yếu tố, bướu lớn hoặc nhỏ, bướu nằm tại đâu, cách giải phẫu, và tình trạng sức khoẻ chung của người bệnh. Nói chung, bệnh nhân thường mệt mỏi đau đớn vài ngày sau khi chịu giải phẫu, và sẽ cần dùng những loại thuốc giảm đau. Một vài bệnh nhân lo âu rằng việc trích mô hay giải phẫu sẽ khiến ung thư lan khắp cơ thể. Điều này khó xảy ra. Bác sĩ giải phẫu dùng những cach thức giải phẫu để cắt bỏ khối u và ngăn ngừa việc lan tràn của ung thư. Khi cần cắt bỏ một bộ phận, bác sĩ sẽ dùng những dụng cụ khác nhau để tránh sự lan tràn của tế bào ung thư sang tế bào lành mạnh.

Quang Tuyến Trị Liệu hay Xạ Trị ( Radiation Therapy )

Quang tuyến trị liệu hay xạ trị dùng những tia quang tuyến có nhiều năng lượng để diệt tế bào ung thư. Bác sĩ dùng nhiều loại xạ trị. Bệnh nhân có thể được chữa trị bằng nhiều cách khác nhau, xạ trị bên ngoài (external) hoặc bên trong (internal) cơ thể hoặc cả hai.

Ngoại Quang Tuyến Trị Liệu :

Tia phóng xạ từ một bộ máy lớn, nhắm đến một vùng trên cơ thể, bệnh nhân không cần phải ở lại nhà thương qua đêm, mà đến nơi chữa trị 5 ngày mỗi tuần trong nhiều tuần lễ.

Nội Quang Tuyến Trị Liệu :

( Internal radiation, implant radiation, interstial radiation, hoặc brachytherapy ) : Chất phóng xạ bọc trong một cái kim, một hạt nhân, hoặc một ống rỗng (catheter) được đặt tại bướu hoặc bên cạnh bướu. Bệnh nhân ở lại nhà thương. Những dụng cụ chứa chất phóng xạ có thể được lấy ra (temporary), hoặc giữ trong cơ thể bệnh nhân một thời gian ngắn.

Quang Tuyến Trị Liệu toàn diện :

( Systemic radiation ): chất phóng xạ đến từ chất lỏng hay dưới dạng viên thuốc luân lưu khắp cơ thể. Bệnh nhân uống hoặc được chích chất lỏng chứa phóng xạ vào cơ thể. Loại xạ trị này dược dùng để chữa ung thư hoặc giảm đau đớn khi ung thư lan đến xương.

Phản ứng phụ từ xạ trị tùy thuộc vào lượng phóng xạ, loại xạ trị sử dụng và nơi được chữa trị. Thí dụ, xạ trị tại bụng sẽ gây buồn nôn, ói mửa và tiêu chảy. Da tại nơi chiếu tia phóng xạ trở nên đỏ rát, sưng tấy, và có thể rụng lông tóc tại vùng da ấy.

Bệnh nhân thường mệt mỏi và yếu sức, nhất là vào tuần lễ chót của cuộc trị liệu, và cần nghỉ ngơi.

Hầu hết mọi phản ứng phụ đều thuyên giảm; khi gặp phản ứng phụ trầm trọng, bác sĩ sẽ ngưng cuộc trị liệu.

Hóa Chất Trị Liệu ( Chemotherapy )

Trị liệu bằng thuốc để diệt những tế bào ung thư. Hóa chất được đưa vào tĩnh mạch (intravenous, IV) hoặc uống. Thuốc luân lưu khắp cơ thể để diệt tế bào ung thư khắp nơi. Hóa chất được dùng định kỳ (cycle). Bệnh nhân được chữa trị một hoặc trong nhiều ngày, nghỉ một thời gian (nhiều ngày hoặc vài tuần) rồi chữa tiếp, cứ như thế.

Hóa chất được sử dụng tại gia, tại văn phòng y sĩ hoặc tại nhà thương tùy theo tình trạng sức khoẻ của bệnh nhân.

Biến Chứng :

Biến chứng tùy thuộc vào loại và lượng hóa chất được sử dụng, và biến chứng xảy ra khác nhau giữa những bệnh nhân. Nói chung, hóa chất trị liệu ảnh hưởng nhiều đến những loại tế bào sinh sản nhanh :

Tế bào máu :

Hồng cầu ( đưa oxygen đi khắp cơ thể ), bạch cầu ( chống nhiễm trùng ) và tiểu cầu ( giúp đông máu ) đều bị hủy hoại, nên bệnh nhân có thể bị thiếu máu ( yếu sức, xanh xao ) bị nhiễm trùng hoặc bị xuất huyết ( thân thể bầm tím, máu ứa ra từ chân răng khi đánh răng...) .

Tế bào bọc chân tóc :

Người bệnh bị rụng tóc, rụng lông mày, lông mi... Lông tóc sẽ mọc lại nhưng có thể khác màu và sợi tóc không cùng thể dạng cũ.

Tế bào lót đường tiêu hóa :

Người bệnh bị lở miệng, tiêu chảy, ói mửa, biếng ăn...

Đôi khi hóa chất trị liệu gây biến chứng lâu dài, làm hiếm muộn (infertility), bệnh nhân không thể có con sau khi chữa lành bệnh.

Hầu hết các phản ứng phụ đều tạm thời, bệnh nhân sẽ phục hồi.

Nội tiết tố trị liệu

Một vài loại ung thư cần nội tiết tố để tăng trưởng. Nội tiết tố trị liệu ngăn tế bào ung thư dùng nội tiết tố cần thiết, và do đó ngăn sự tăng trưởng. Đây là loại trị liệu toàn diện. Nội tiết tố trị liệu dùng thuốc hoặc giải phẫu :

Thuốc : Bác sĩ dùng thuốc có tác dụng ngăn việc sản xuất hoặc ngăn tác dụng của nội tiết tố. Giải phẫu: Bác sĩ cắt bỏ bộ phận sản xuất nội tiết tố như buồng trứng hoặc tinh hoàn.

Phản ứng phụ của nội tiết tố trị liệu tùy thuộc vào loại trị liệu và có thể bao gồm việc lên cân, nóng lạnh, buồn nôn, hoặc hiếm muộn. Với phụ nữ nội tiết tố trị liệu có thể gây loạn kinh, ngừng chu kỳ kinh nguyệt và gây khô âm đạo. Ở nam phái, nội tiết tố trị liệu có thể gây liệt dương, giảm sự ham muốn tình dục, vú nở lớn và đau đớn.

Sinh Hóa Tố Trị Liệu ( Biologic Therapy )

Đây là một loại trị liệu toàn diện. Cách trị liệu này giúp hệ miễn nhiễm, còn được gọi là hệ đề kháng (immune system), của cơ thể chống lại ung thư. Thí dụ, một số bệnh nhân bị ung thư bàng quang được chữa trị với BCG solution sau khi giải phẫu. Bác sĩ dùng một ống bơm thuốc vào bàng quang. Chất thuốc này chứa vi khuẩn còn sống (nhưng đã suy yếu) để kích thích hệ miễn nhiễm hoạt động và diệt tế bào ung thư. BCG có thể gây phản ứng phụ như đau rát bàng quang, buồn nôn, sốt, hoặc nóng lạnh.

Hầu hết các loại sinh hóa tố trị liệu được đưa vào cơ thể qua tĩnh mạch. Một số bệnh nhân nổi mề đay, da đỏ rát tại nơi đặt ống dẫn thuốc. Những phản ứng phụ khác như sốt, nóng lạnh, nhức đầu, đau bắp thịt, mệt mỏi, yếu sức, và buồn nôn. Sinh hóa tố trị liệu còn có thể gây thay đổi áp huyết và khó thở. Sinh hóa tố trị liệu được dùng tại văn phòng bác sĩ, trung tâm y tế hoặc bệnh viện.

Ghép tế bào gốc ( Stem Cell Transplant )

Ghép tế bào gốc giúp bệnh nhân chịu đựng một lượng cao hơn hóa chất, xạ trị, hoặc cả hai. Một lượng cao hóa chất, xạ trị sẽ diệt tế bào ung thư và cả tế bào lành mạnh trong tủy xương. Sau khi trị liệu, bệnh nhân được ghép tế bào gốc lành mạnh qua tĩnh mạch. Những tế bào gốc này sẽ tăng trưởng thành những tế bào máu lành mạnh. Tế bào gốc có thể được lấy ra từ chính bệnh nhân trước khi chữa trị ung thư, hoặc từ những người tình nguyện trao tặng. Bệnh nhân ở lại bệnh viện để được ghép tế bào gốc.

Phản ứng phụ từ việc dùng lượng cao hóa chất, xạ trị và ghép tế bào gốc là nhiễm trùng và chảy máu (xuất huyết). Ngoài ra, chứng graft-versus-host disease (GVHD) có thể xảy ra khi nhận tế bào gốc từ người lạ. Tế bào của người tặng chống lại tế bào của người nhận. Biến chứng này ảnh hưởng đến gan, da, và bộ phận tiêu hóa của bệnh nhân, và có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong giai đoạn ghép tế bào gốc, ngay cả nhiều năm về sau. Thuốc men có thể giảm biến chứng này.

Những cách trị liệu phụ và nhữngcách trị liệu khác ( Complementary and Alternative Medicine, CAM ).

Một số bệnh nhân dùng cách trị liệu phụ (complementatry) và cách trị liệu khác (alternative) :

- Cách trị liệu phụ được dùng chung vói các trị liệu chính .

- Cách trị liệu “khác” được sử dụng thay cho cách trị liệu được giới Y học kiểm nhận, hay cách trị liệu “chính”.

Châm cứu ( Acupuncture ), thoa bóp, dược thảo, sinh tố hoặc cách ăn uống đặc biệt, visualization (tập trung tinh thần và “nhìn” ra hình ảnh không hiện hữu), kiết già, ngồi thiền… là những cách trị liệu “khác” thay cho cách trị liệu “chính” được giới Y học kiểm nhận.

Nhiều bệnh nhân nói rằng CAM giúp họ thư thái dễ chịu. Tuy nhiên một vài loại trị liệu CAM ảnh hưởng đến cách trị liệu “chính”, và sự thay đổi này có thể nguy hại cho bệnh nhân. Hơn nữa có cách trị liệu CAM dù chỉ dùng riêng rẽ cũng gây nguy hại cho bệnh nhân. Bảo hiểm thường không trả chi phi liên quan đến trị liệu CAM, và CAM có thể rất đắt tiền.

Nên hỏi bác sĩ các câu hỏi sau đây trước khi thử CAM :

- Lợi ích của cách trị liệu này là những gì ?

- Nguy hại, nếu có, sẽ ra sao ?

- Lợi ích của nhiều ơn sự nguy hại không ?

- Phản ứng phụ là những gì ?

- Cách trị liệu này có thay đổi việc trị liệu “chính” của tôi không ? Nếu có thì có nguy hại gì không ?

- Cách trị liệu này có được thử nghiệm bởi trung tâm Y khoa nào không ? Nếu có, cơ quan hay cá nhân nào bảo trợ cuộc thử nghiệm ấy ?

- Bảo hiểm của tôi có trả chi phí cho cách trị liệu CAM này không ?

Dinh dưỡng & việc vận động cơ thể

Bệnh nhân bị ung thư cần giữ gìn sức khỏe. Giữ gìn sức khỏe bằng cách ăn uống điều độ và vận động thường xuyên. Bệnh nhân cần ăn đủ một lượng calorie để duy trì trọng lượng. Bệnh nhân cũng cần một lượng chất đạm để giúp cơ thể khoẻ mạnh, đủ sức lực. Ăn uống đầy đủ dinh dưỡng sẽ khiến cơ thể dễ chịu hơn và đem lại sinh lực. Đôi khi, nhất là ngay sau khi cuộc trị liệu chấm dứt, bệnh nhân có thể không muốn ăn uống, mệt mỏi và mất sức. Thức ăn có thể mất hết hương vị cũ khiến bệnh nhân không muốn ăn. Thêm vào đó, những phản ứng phụ như buồn nôn, ói mửa, lở miệng… khiến việc ăn uống thêm khó khăn. Chuyên viên về dinh dưỡng, y tá và bác sĩ có thể giúp bệnh nhân về cách dinh dưỡng thích hợp.

Khi vận động, bệnh nhân sẽ cảm thấy dễ chịu hơn, có thêm sinh lực. Đi bộ, bơi lội, kiết già (yoga) giúp bệnh nhân thêm sức mạnh, giảm sự buồn nôn, và giảm sự căng thẳng tinh thần. Báo cho bác sĩ biết nếu việc vận động gây đau đớn.

Khám bệnh sau khi trị liệu

Một số ung thư có thể chữa trị thành công khi tìm ra bệnh sớm. Tuy nhiên bác sĩ không thể đoan quyết là ung thư không bao giờ tái phát. Có những tế bào ung thư ẩn dấu trong cơ thể sau cuộc trị liệu. Mặc dù ung thư dường như đã bị tuyệt gốc, ung thư vẫn có thể tái phát. Để theo dõi tình trạng sức khỏe bệnh nhân, và theo dõi dấu vết ung thư, bác sĩ có thể thử nghiệm qua việc thử máu, chụp quang tuyến và những thử nghiệm khác. Nếu ung thư tái phát, bệnh nhân và bác sĩ sẽ tìm cách trị liệu mới.

Bác sĩ cũng khám nghiệm xem có phản ứng phụ hay không, phản ứng phụ có thể xuất hiện sau khi cuộc trị liệu chấm dứt. Việc theo dõi định kỳ giúp bác sĩ và bệnh nhân biết rõ tình trạng sức khỏe của bệnh nhân.

Những nơi trợ giúp

Sống với ung thư là một việc khó khăn. Bệnh nhân có thể lo lắng về việc chăm sóc gia đình, giữ công việc làm, hoặc duy trì đời sống hằng ngày; những lo âu khác về cuộc trị liệu, phản ứng phụ, bệnh viện, và các chi phí. Bác sĩ, y tá có thể giúp đỡ về trị liệu; những chuyên viên xã hội có thể giúp đỡ về phương tiện di chuyển, đơn từ xin trợ cấp tài chánh hoặc cả chuyên viên Tâm Lý giúp đỡ về mặt tâm thần.

Thân nhân và bạn hữu cũng là những nguồn trợ giúp đắc lực khác. Bệnh nhân có thể tìm gặp trò chuyện với những bệnh nhân khác trong các nhóm hỗ trợ để chia sẻ sự âu lo của mình, người đồng cảnh dễ cảm thông và giúp nhau sống với ung thư dễ dàng hơn.

Khảo cứu về ung thư

Chuyên gia khảo cứu khắp nơi trên thế giới đang tiếp tục tìm kiếm cách chữa trị ung thư hiệu nghiệm hơn, ít phản ứng phụ hơn; cách truy tìm ung thư sớm hơn, cách chẩn đoán hiệu nghiệm hơn và cả cách phòng ngừa ung thư. Mỗi ngày ta học hỏi thêm ít nhiều về ung thư.

Các chuyên gia tổ chức các cuộc thử nghiệm, còn được gọi là thử nghiệm lâm sang hay “clinical trials”.

Thử nghiệm lâm sàng là chặng đường cuối sau một quá trình tìm kiếm rất kỹ lưỡng: bắt đầu từ phòng thí nghiệm (laboratory), nếu cách trị liệu có hiệu quả, bước kế tiếp là thử nghiệm xem cách trị liệu ảnh hưởng đến thú vật như thế nào và có phản ứng phụ ra sao. Cách trị liệu hiệu quả trong loài vật chưa hẳn đã hiệu nghiệm trong con người. Thử nghiệm lâm sàng được tổ chức để tìm hiểu xem cách trị liệu mới hiệu nghiệm ra sao, có an toàn không trong việc ngăn ngừa, truy tìm, chẩn đoán hoặc chữa trị ung thư.

Thử nghiệm lâm sàng đem lại sự hiểu biết và tiến bộ trong việc chữa trị ung thư. Các chương trình khảo cứu đã tiến khá xa, và chuyên gia vẫn tiếp tục công việc. Qua kinh nghiệm thu nhặt được từ các thử nghiệm lâm sàng, bệnh nhân bị ung thư sống lâu hơn, và sống tương đối khỏe mạnh hơn so với thập niên trước.

Có nhiều loại thử nghiệm lâm sàng :

- Thử nghiệm cách ngừa bệnh ( Prevention Trials ): Thử nghiệm xem sinh tố, dược thảo, cách ăn uống, sinh sống nào hiệu quả trong việc ngăn ngừa hoặc giảm tỷ lệ ung thư.

- Thử nghiệm cách truy tìm ung thư ( Screening Trials ): Thử nghiệm các phương cách truy tìm trong việc nhận diện ung thư sớm (khi bệnh nhân chưa có triệu chứng gì). Thí dụ, chuyên gia so sánh spiral CT scan với X-Ray xem cách nào tìm thấy dấu vết ung thư phổi sớm hơn.

- Thử nghiệm cách chữa trị: Tìm kiếm hoặc so sánh cách trị liệu mới xem hiệu quả ra sao.

- Thử nghiệm cách duy trì đời sống bệnh nhân ( Quality of Life Trials ): Xem cách trị liệu nào đem lại sự thư thái hơn cho bệnh nhân qua việc giảm phản ứng phụ, giảm đau, duy trì trọng lượng.

Bệnh nhân tham gia các cuộc thử nghiệm lâm sàng được săn sóc theo dõi kỹ lưỡng và có thể được chữa trị hiệu quả hơn. Ngay cả khi cuộc thử nghiệm không thành công, bệnh nhân cũng đã giúp bác sĩ học hỏi thêm về ung thư, và sự hiểu biết này sẽ giúp những bệnh nhân kế tiếp.

What You Need To Know About Cancer, the NCI. Oct. 2