NewYork Paris Hà Nội Khách thứ :

NIỀM TIN TƯƠNG LAI

     

Bệnh Cột Sống - BS Nguyễn Ý Ðức , Kiều bào Mỹ

Xương sống trẻ sơ sinh có có 33 đốt : 7 đốt cổ, 12 đốt ngực, 5 đốt thắt lưng, 5 đốt hông và 4 đốt cụt. Tới khi trưởng thành, các đốt hông và cụt dính lại với nhau, chỉ còn lại hai xương cùng và xương cụt. Vì thế người trưởng thành chỉ có 26 đốt xương sống.

Xương sống nâng đỡ sức nặng các phần ở bên trên của cơ thể là đầu, mình, hai tay. Cột sống chạy từ đáy hộp sọ xuống tới cuối lưng, bao bọc và bảo vệ dây cột sống (spinal cord). Dây cột sống gồm có các tế bào thần kinh, các bó sợi thần kinh kết nối tất cả các bộ phận của cơ thể với não bộ. Từ cột sống, phát xuất 32 đôi dây thần kinh tủy sống.

Xương sống khớp với hộp xương sọ, xương sườn, đai hông và là nơi bám của các cơ lưng. Cột sống không đứng ngay thẳng mà có nhiều đoạn hơi cong để chịu sức nặng cơ thể hữu hiệu hơn trong các thế đứng khác nhau. Các đốt xương sống được dây chằng và hơn 400 cơ bắp nho nhỏ neo giằng hỗ trợ. Dây chằng (ligament) là một băng mô liên kết xơ cứng, mầu trắng, nối hai xương với nhau ở vùng khớp. Các dây này không đàn hồi nhưng có thể uốn cong, giữ cho khớp mạnh hơn và giới hạn sự chuyển động của khớp về một phía nào đó.

Nằm giữa các đốt xương là một cấu trúc dẹp (đĩa liên sống) cấu tạo bằng chất collagen rất bền chắc dùng làm chất đệm cho đốt xương, chống đỡ với sức mạnh va chạm. Khi mới sanh, nước chiếm 80% thành phần cấu tạo đĩa và đĩa mềm sốp.Tới tuổi gia tăng, nước trong đĩa khô dần. Vì đĩa không có mạch máu nuôi dưỡng, cho nên khi bị tổn thương thì không tự lành được. Khi đĩa bị chấn thương, dây thần kinh bị đè kẹp và gây ra đau đớn vô cùng cho chân. Đốt ở phía cuối cột sống là nơi gây ra nhiều đau hơn cả. Khi các thành phần cấu tạo xương sống bị tổn thương, siêu vẹo, co kéo thì đau lưng xảy ra.

Mấy bệnh thông thường của cột sống :

Thoái hóa đĩa đệm ( Degenerative Disc Disease )

Ðĩa đệm là một cấu trúc sụn-xơ nằm giữa hai đốt sống. Toàn bộ đĩa đệm chiếm ¼ chiều dài cột sống và hoạt động như một bộ phận giàm sốc để bảo vệ não và dây thần kinh não tủy khi cơ thể vận động mạnh, như chạy nhẩy, uốn mình. Một số tác giả coi thoái hóa đĩa đệm như một diễn biến của sự hóa già. Ðĩa giảm đàn hồi, dẻo dai và giảm sốc. Lớp dây chằng bao bọc đĩa trở nên giòn, dễ gẫy. Ðồng thời phần chất mềm ở giữa đĩa bắt đầu khô và teo lại, mấu xương (spur) mọc nhô ra ở cạnh đốt xương sống vá mặt khớp đốt xương.

Ðĩa đệm sẹp và mấu xương nhô ra sẽ làm thu hẹp khoảng trống dành cho dây cột sống, do đó rễ dây thần kinh bị đè ép. Không phải ai bị thoái hóa đĩa đệm cũng bị đau lưng. Cơn đau thường xảy ra khi bệnh nhân ngồi vì lúc này phần dưới cột sống chịu sức nặng gấp ba lần khi đứng. Cơn đau tăng khi bệnh nhân cúi xuống, nâng vật nặng hoặc vặn mình. Ði lại hoặc chạy chậm đôi khi làm cơn đau giảm đi. Khi nằm, áp lực lên đĩa đệm giảm và làm bớt đau. Ngoài đau lưng, bệnh nhân còn cảm thấy đau nhói nhói, tê tê ở dưới chân và bàn chân vì dây thần kinh có thể bị kẹp hoặc đè ép. Chụp X-quang MRI hoặc CT scan là hai phương tiện rất hữu hiệu để xác định bệnh. MRI cho biết mức độ thoái hóa và thoái vị của đĩa đệm.

Có nhiều biện pháp trị liệu khác nhau :

a- Không giải phẫu

- Trước hết, bệnh nhân cần kiểm soát cơn đau: chườm lạnh để làm giảm đau, chườm nóng để cơ bắp thư giãn.

- Dùng thuốc chống đau như acetaminophen, thuốc chống đau không có steroids ( NSAIDS ), thuốc có chất á phiện, thuốc thư giãn bắp thịt.

- Ðôi khi, bác sĩ cũng có thể chích cortisone vào màng tủy xương.

Ngoài ra, châm cứu, thủ thuật chỉnh xương, thoa nắn, siêu âm... cũng có nhiều công hiệu. Ðôi khi người bệnh phải phối hợp nhiều phương thức khác nhau, chứ không có một phương thức chung cho mọi người bệnh.

b- Tập luyện, vật lý trị liệu

Khi cơn đau đã giảm, bệnh nhân cần tích cực tập luyện các thành thần cấu tạo cột sống.Tập luyện mang lại một số lợi ích như sau :

- Giúp các thành phần cấu tạo xương sống duy trì sự bền bỉ và sức mạnh, giảm áp lực xuống đĩa đệm. Nhờ đó, cơn đau giảm bớt.

- Vận động mang chất dinh dưỡng tới cho đĩa đang bị thoái hóa, tổn thương. Tập vươn giãn theo thể điệu để tăng cường sức mạnh của bắp thịt dọc theo xương sống, nhờ đó cơn đau cũng giảm.

c- Thay đổi lối sống, thói quen

Bệnh nhân cũng nên tránh các động tác gây ảnh hưởng cho đĩa đệm, như là nâng vật quá nặng, vặn lưng quá cong và nên sử dụng ghế đệm đỡ lưng. Nếu hút thuốc là thì nên ngưng, vì thuốc lá làm giảm máu tới nuôi dưỡng đĩa. Nếu quá mập phì cũng cần giảm cân. d-Sau sáu tháng phối hợp điều trị như trên mà cơn đau không những không giảm, mà còn gia tăng, gây trở ngại cho cuộc sống, cho công việc hàng ngày thì có thể nghĩ tới giải phẫu.

Có hai phương thức giải phẫu thường được dùng :

- Nối tiếp đốt sống ( Fusion lumbar spine ) :

Ðĩa thoái hóa được lấy ra và thay thế bằng xương của người bệnh hoặc xương tổng hợp. Xương sẽ mọc ra trên xương ghép và hai đốt xương sẽ dính với nhau. Bệnh nhân sẽ không còn cảm thấy đau vì đĩa thoái hóa không còn nữa. Phương thức này có vài khuyết điểm: vết mổ đau, mất thời gian lâu để đốt sống dính với nhau, sự dính đưa tới thay đổi chuyển động của các đốt sống lân cận.

- Thay thế bằng đĩa nhân tạo. Ðĩa nhân tạo được thay thế vào vị trí của đĩa thoái hóa. Thay thế này mới được cho phép dùng ở Hoa Kỳ vào năm 2004, cho nên còn cần nhiều nghiên cứu bổ túc để hoàn thiện.

- Thay thế bằng đĩa nhân tạo. Ðĩa nhân tạo được thay thế vào vị trí của đĩa thoái hóa. Thay thế này mới được cho phép dùng ở Hoa Kỳ vào năm 2004, cho nên còn cần nhiều nghiên cứu bổ túc để hoàn thiện.

Giải phẫu chữa thoái hóa đĩa đệm là một phẫu thuật phức tạp, cần một thời gian lâu sau giải phẫu để phục hồi và có thể gây ra một số khó khăn. Do đó, bệnh nhân cần cân nhắc suy nghĩ kỹ càng và cần thảo luận lợi hại với bác sĩ điều trị trước khi quyết định.

Sa đĩa liên sống ( Herniated Disc )

Còn gọi là thoát vị đĩa đệm, trợt đĩa (slipped disc), vỡ (ruptured) hoặc rách (torn) đĩa. Trường hợp này xẩy ra khi nhân của đĩa nhô ra qua màng xơ bao chung quanh đĩa và ép lên các rễ thần kinh, dây chằng kế cận. Ða số các trường hợp thoát vị đĩa đệm đều thường thấy ở tuổi 30-40, khi mà nhân đĩa còn dẻo như gelatin. Thoát vị xẩy ra bất chợt khi vặn hoặc cong cột sống quá mức. Phần đĩa đệm lòi ra sẽ đè lên dây thần kinh cột sống.

Sa đĩa đệm có thể thấy ở bất cứ phần nào của cột sống, nhưng 98% trường hợp ở giữa hai cột sống lưng số 4- số 5 và cột sống lưng số 5 - xương cùng. Bệnh nhân có những cơn đau sắc bén, mạnh như xé thịt ở lưng, chạy xuống vùng chân mà dây thần kinh tủy có ảnh hưởng. Dáng đi tập tễnh, co chân đau để tránh mang sức nặng của cơ thể. Ðiều trị với nghỉ ngơi, chườm nóng lạnh, dùng thuốc chống đau, vật lý trị liệu, giải phẫu nếu cần.

Vẹo cột sống ( Scoliosis )

Vẹo cột sống là một hình dạng bất bình thường về độ cong của xương sống. Ở một người bình thường và khi nhìn từ phía sau, cột sống là một đường thằng đứng từ phần chót của gáy xuống tới xương cụt. Nếu nhìn nghiêng, xương sống có hình chữ S, cong ra phía trước ở phần lưng trên và cong về phía sau ở phần lưng dưới. Khi bị vẹo, nhìn từ phía sau sẽ thấy cột sống có một vài độ cong không bình thường.

Các dấu hiệu thường thấy của vẹo cột sống gồm có :

- Hai vai cao thấp không đều nhau .

- Một xương bả vai nhô cao hơn phía bên đối diện.

- Eo bên cao bên thấp.

- Một bên hông cao hơn bên kia.

- Khi đứng hoặc đi lại, người nghiêng về một phía.

Khi cột sống vẹo nhiều, xương sườn và lòng ngực nhô về phía trước, gây khó khăn cho sự thở và cũng gây ra đau lưng. Nguyên nhân gây ra vẹo cột sống chưa được biết rõ. Có nhiều trường hợp do bẩm sinh, do chân dài chân ngắn.Vẹo cột sống thường thấy ở nhiều người trong một gia đình. Vẹo cột sống không phải là hậu quả của dáng điệu không ngay ngắn, vận động cơ thể quá mạnh hoặc đeo vật nặng trên lưng. Cứ 1000 trẻ em thì có từ 3 - 5 em bị vẹo cột sống và trẻ gái vẹo nhiều hơn trai. Vẹo trầm trọng hơn khi xảy ra ở tuổi trẻ, khi cột nghiêng nhiều nhất là nghiêng ở phần trên cột sống.

Bất thường này ít khi xảy ra ở tuổi trưởng thành, đôi khi vì cột đã bị vẹo từ nhỏ mà không chữa hoạc vẹo do thoái hóa cột sống. Bình thường, vẹo cột sống không gây ảnh hưởng xấu cho sức khỏe. Tuy nhiên, khi cột vẹo nhiều sẽ gây tổn thương cho tim, phổi, đau lưng. Lồng ngực sẽ đè vào tim phổi gây khó khăn cho sự hô hấp và sự bơm máu từ tim.

Vẹo cột sống gây ra đau lưng kinh niên, đôi khi viêm xương khớp cột sống.

Thường thường, bác sĩ gia đình cũng như trường học đều khám để coi trẻ em có bị vẹo cột sống không. Trẻ bị vẹo cột sống được điều chỉnh bằng :

- Ðeo nẹp lưng ( brace ) để vẹo không trầm trọng hơn. Khi cởi bỏ nẹp, cột sống vẹo trở lại.

- Giải phẫu nối đốt sống ở chỗ vẹo với nhau, nhờ đó cột sống thẳng trở lại.Phẫu thuật này rất phức tạp, cần được bác sĩ và bệnh nhân cân nhắc lợi hại trước khi thực hiện.

Thoái hóa đốt sống ( spondylosis, osteoarthritis of the spine ).

Trong thoái hóa đốt sống, lớp sụn lót giữa hai mặt đốt xương và đĩa liên hợp bị tổn thương gây ra thay đổi cấu trúc và suy giảm chức năng của cột sống. Tuổi cao là rủi ro chính của sự thoái hóa nhưng mức độ thoái hóa nhanh chậm tùy theo từng người. Thoái hóa có thể xảy ra ở cột sống cổ, ngực, lưng.

1- Thoái hóa đĩa đệm : Với tuổi cao, vành bao bọc đĩa đệm bị rách mòn, phần keo trong đĩa khô nước, giảm khả năng chống sốc và giảm chiều cao của cơ thể. Chất keo có thề lòi ra khỏi vành, đè lên rễ dây thần kinh não tủy.

2- Viêm khớp đốt sống : Mỗi đốt sống có 4 mặt khớp có nhiệm vụ như cái bản lề để cột sống có thể cử động nghiêng ngả về phía trước sau và hai bên. Một lớp sụn bao phủ mặt khớp để sự chuyển động khớp được chơn tru. Khi bị thoái hóa, sụn hao mòn, gai xương (osteophyte=bone spurs) mọc ra. Thoái hóa đốt sống cổ gây ra đau ở cổ, vai và cánh tay. Gai xương có thể đè lên rễ dây thần kinh, làm cho các bắp thịt ở tay yếu. Viêm khớp đốt sống ngực gây ra đau khi cúi xuống hoặc ngửa người ra phía sau. Ðốt sống lưng chịu đựng hầu hết sức nặng của cơ thể. Khi thoái hóa, thường có đau lưng nhất là khi ngồi lâu hoặc nâng nhấc vật nặng. Chụp hình cột sống ( X-quang,MRI, CT Scan ) đều thấy rõ các thay đổi của cột sống.

Ðiều trị

Nhiều người cứ cho rằng khi bị thoái hóa cột sống là sẽ bị đau lưng suốt đời hoặc phải ngồi xe lăn. Thực ra, bệnh không đưa tới tình trạng bi quan như vậy, vì với các phương tiện trị liệu hiện có, 75% bệnh nhân có thể phục hồi. Trị liệu căn bản gồm có :

- Nằm nghỉ không quá 3 ngày, để tránh máu cục ở tĩnh mạch nằm sâu dưới da.

- Dùng dược phẩm chống viêm đau, thuốc thư giãn cơ bắp trong thời gian ngắn.

- Vùng xương bị viêm được giữ cố định để tạm thời giới hạn cử động khớp và giảm đau.

- Chườm nóng, kích thích điện.

- Tập các cử động tăng sức mạnh bắp thịt ở bụng, dọc theo cột sống để giúp cột sống mạnh hơn.

- Thay đổi nếp sống, việc làm, bỏ thuốc lá, giảm cân nếu mập phì...

Giải phẫu ít khi cần đến trong trường hợp thoái hóa đốt sống.

Ðau dây thần kinh tọa

Dây thần kinh tọa ( sciatic nerve ) là dây thần kinh chính ở chân. Ðây là dây thần kinh lớn nhất, chạy dài từ phần dưới cột sống xuống phía sau đùi. Tới khớp gối, dây chia ra làm hai nhánh phân bố cho các cơ và da của chân. Ðau dây thần kinh tọa thường xảy ra ở lớp tuổi từ 30- 50 và thường là do một đĩa đệm ở phần dưới lưng lòi ra, đè lên rễ của dây thần kinh. Triệu chứng chính của rối loạn này là cảm giác đau ở một phía cơ thể, chạy dài từ dưới lưng xuống mặt sau của bắp đùi và bắp chân, đôi khi tới bàn chân, ngón chân. Cảm giác đau có thể là :

- Ðau ở phía sau chân nhất là khi ngồi.

- Cảm giác nóng và nhoi nhói dưới da.

- Yếu, tê tê và không cử động được chân và bàn chân.

- Ðau liên tục khiến cho đứng lên khó khăn.

- Thường thường đau ở dưới chân nhiều hơn là ở lưng.

Cảm giác đau thường hết sau thời gian từ hai tuần lễ tới vài tháng. It khi dây thần kinh tọa bị tổn thương vĩnh viễn. Nếu thấy chân mỗi ngày mỗi yếu hoặc có rối loạn đại tiểu tiện, thì cần gặp bác sĩ ngay để khám nghiệm, điều trị vì có thể là dây thần kinh tọa bị tổn thương trầm trọng.

Ðiều trị tập trung ở giải quyết nguyên nhân (kẹp dây thần kinh tọa) giảm đau với thuốc chống viêm đau, vật lý trị liệu, tập luyện tăng sức mạnh bắp thịt. Giải phẫu cũng được áp dụng khi bệnh không thuyên giảm với các trị liệu kể trên. Mục đích của giải phẫu là để giải tỏa đè kẹp rễ dây thần kinh tọa.

Viêm cứng khớp cột sống ( ankylosing spondylitis )

Như tên gọi, viêm cứng cột sống là trường hợp viêm của đốt xương sống. Trong trường hợp trầm trọng, các đốt xương có thể dính lại với nhau và gây ra giới hạn cử động của bộ phận này. Viêm dây chằng, gân kết nối các đốt sống với nhau cũng có thể xảy ra. Các đốt sống cùng-chậu là nơi thường hay bị viêm. Bệnh này xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng thường thấy ờ tuồi từ 15 tới 30 và ở đàn ông nhiều hơn đàn bà.

Triệu chứng gồm có :

- Ðau lưng kinh niên, kéo dài từ nhiều tháng tới nhiều năm.

- Cơn đau thường xẩy ra vào ban đêm.

- Cảm giác cứng nhắc ở lưng sau khi ngủ dậy và kéo dài suốt ngày.

- Ðau ở vùng xương sườn, bả vai, hông, đùi, gót chân.

- Viêm mống mắt ( iritis ) với cảm giác cồm cộm như có cát trong mắt.

- Trong một vài trường hợp, viêm phần cuối của động mạch chủ.

Nguyên nhân gây ra viêm cứng khớp cột sống chưa được biết rõ, nhưng bệnh mang tính cách di truyền cho nhiều người trong gia đình. Bệnh không chữa hết được, nhưng có nhiều phương thức giúp bệnh nhân cảm thấy thoải mái, bớt đau và duy trì sinh hoạt hàng ngày. Các loại thuốc chống viêm đau không có steroid giúp bệnh nhân bớt đau và cứng khớp. Thuốc có steroid đôi khi cũng được dùng. Tập luyện, vận động cơ thể có vai trò quan trọng trong bệnh viêm cứng này. Tập luyện để giúp khớp xương chuyển động, giảm đau nhức, giữ dáng điệu và lồng ngực bình thường và không gây trở ngại hô hấp.

Kết luận

Cột xương sống là một cấu trúc tuyệt hảo để :

- Nâng đỡ đầu và phần trên của cơ thể .

- Chứa đựng và bảo vệ cột tủy sống, nơi dẫn truyền cả triệu tín hiệu sinh tử giữa não bộ và các cơ quan, bộ phận của cơ thể.

- Giúp cơ thể uyển chuyển thân hình, thích nghi với các hoạt động khác nhau.

Do đó, cột sống cần được sự lưu tâm chăm sóc và nuôi dưỡng đầy đủ.