NewYork Paris Hà Nội Khách thứ :

NIỀM TIN TƯƠNG LAI

     

Định hướng nghiên cứu phòng chống dịch tả và vai trò của nhà vệ sinh - GS TS Nguyễn Văn Tuấn , Kiều bào Úc

Nhân câu chuyện mắm tôm đã được Bộ Y tế minh oan, tôi xin bàn đến vấn đề khác : định hướng nghiên cứu phòng chống dịch tả và vai trò của nhà vệ sinh.

Ngay từ những ngày đầu lúc dịch bệnh bộc phát, tôi đã đề nghị nên tiến hành nghiên cứu dịch tễ học để tìm hiểu về các yếu tố sinh học gây bệnh. Vì vậy tôi thấy rất phấn khích khi biết được một dự án nghiên cứu cấp nhà nước đã được phê chuẩn. Tuy chưa đọc qua đề cương nghiên cứu (và chắc cũng chẳng bao giờ có cơ hội đọc) nhưng đọc qua tên của dự án (“Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng và các giải pháp phòng chống dịch tả”) tôi thấy hơi phân vân và có cảm giác déjà vu. Tôi đã thấy quá nhiều nghiên cứu, quá nhiều luận án tiến sĩ với những cụm từ như thế này từ Việt Nam, nhiều đến nỗi tôi phải tự hỏi “hay là đồng nghiệp ta hết ý tưởng”? Tôi phân vân là vì đề tài nghiên cứu cấp nhà nước mà có vẻ đơn giản quá, mang tính mô tả hơn là phân tích chuyên sâu, và nhất là thiếu cái mới.

Trên thế giới đã có quá nhiều nghiên cứu như thế này. Khi tôi vào thư viện y khoa quốc tế (PubMed) và gõ cụm từ “risk factors of cholera” (yếu tố nguy cơ bệnh tả), cơ sở dữ kiện cho tôi biết đã có 202 bài báo khoa học liên quan đến đề tài này. Với y văn như thế, tôi phải đặt câu hỏi: một dự án nghiên cứu như thế có thể cung cấp thông tin gì mới cho y văn quốc tế và Việt Nam hay không? Dịch tễ học thế kỉ 21 không nên loay hoay với các vấn đề kinh điển như thế. Còn nghiên cứu giải pháp phòng chống dịch tả thì cũng đã có nhiều kinh nghiệm và bài học từ Phi châu, Nam Dương, thậm chí từ Việt Nam và Tổ chức Y tế Thế giới, vậy thì mục tiêu tìm giải pháp phòng chống có gì mới? Vả lại khi công trình nghiên cứu thực hiện thì dịch tả và tiêu chảy đã là quá khứ, làm sao tìm giải pháp phòng chống những gì đã xảy ra? Do đó, cần phải xem xét lại mục tiêu cụ thể của đề cương công trình nghiên cứu được phê chuẩn quá nhanh kể trên. Thế thì câu hỏi đặt ra là cần phải nghiên cứu cái gì? Nên chăng cần tập trung vào 4 định hướng nghiên cứu sau đây:

Định hướng 1:

Nghiên cứu về các yếu tố dịch tễ phân tử học (molecular epidemiological factors) để xác định ảnh hưởng của các vi khuẩn và sự tương tác giữa các vi khuẩn này với gien và môi trường đến nguy cơ mắc bệnh. Có một số biến thể gien và nhóm máu làm cho đối tượng dễ mắc bệnh tả, nhưng chúng ta không biết cơ chế và mối tương tác giữa các gien này với vi khuẩn tả và các vi khuẩn khác như thế nào. Cố nhiên, không nên tập trung chỉ vào một vi khuẩn V. cholerae, mà còn phải xem xét đến các vi khuẩn và siêu vi khuẩn khác như rotavirus nhóm A, E. coli, Shigella spp, E. coli, và 9% salmonella... Câu hỏi đặt ra là bao nhiêu trường hợp bệnh tả và tiêu chảy có thể qui kết cho các tác nhân sinh học này, và chúng tương tác với môi trường và gien ra sao. Nghiên cứu này đòi hỏi kinh nghiệm chuyên sâu về dịch tễ học, vi sinh học và thống kê học.

Định hướng 2:

Nghiên cứu về mô hình lan bệnh. Đặc tính kinh điển của bệnh dịch tả là chúng lây lan rất nhanh và có khi bộc phát cùng một lúc như chúng ta chứng kiến vừa qua. Có nhiều câu hỏi mang tính chuyên sâu và kĩ thuật về vấn đề này, chẳng hạn như: sự phân phối bệnh trong một hộ gia đình và giữa các hộ trong cộng đồng; yếu tố nào ảnh hưởng đến tốc độ lây lan và phân bố của bệnh; ai là đối tượng có nguy cơ cao; có thể phát triển mô hình tiên lượng (prognostic models) để nhận ra đối tượng nguy cơ trước để can thiệp không, v.v… Đây là một định hướng nghiên cứu quan trọng, vì nó cung cấp cho chúng ta các dữ liệu về sự ảnh hưởng của môi trường và di truyền (vì nghiên cứu trong gia đình) rất quan trọng cho chính sách y tế cộng đồng. Nghiên cứu này đòi hỏi chuyên gia lành nghề về dịch tễ học, thống kê học và y học.

Định hướng 3:

Nghiên cứu về mối tương tác đa chiều giữa chế độ ăn uống, môi trường và môi trường sống của địa phương (kể cả nguồn nước). Ở đây chúng ta có 3 yếu tố nguy cơ: cá nhân, gia đình, và cộng đồng. Đã có quá nhiều nghiên cứu ảnh hưởng của từng yếu tố, nhưng chưa có nghiên cứu mối tương tác (interaction effects) giữa các yếu tố. Khái niệm tương tác rất quan trọng, bởi vì bệnh dịch có nhiều yếu tố nguy cơ và chúng tương tác nhau để gây bệnh. Chẳng hạn như một gia đình dù có giữ vệ sinh trong nhà, nhưng nếu môi trường bị nhiễm trùng, thì nguy cơ mắc bệnh vẫn cao. Do đó, vấn đề đặt ra không phải là ảnh hưởng của từng yếu tố nguy cơ, mà là ảnh hưởng của mối tương tác.

Định hướng 4:

Nghiên cứu về hiệu quả can thiệp ở qui mô cộng đồng. Một trong những vấn đề hiện nay là nếu chúng ta can thiệp để thay đổi lối sống và môi trường ở qui mô cộng đồng thì hiệu quả phòng chống dịch bệnh là bao nhiêu? Để trả lời câu hỏi này chúng ta cần nghiên cứu đối chứng theo địa phương (cluster randomized trial). Mô hình nghiên cứu “cluster randomized trial” rất thích hợp để giải quyết câu hỏi trên, vì đơn vị của của nghiên cứu là cộng đồng, chứ không phải bệnh nhân. Tuy nhiên, nghiên cứu này đòi hỏi thời gian và cần phải theo dõi cộng đồng một thời gian dài (12 đến 24 tháng) vì tỉ lệ phát sinh bệnh thường thấp.

Vai trò của nhà vệ sinh

Nhưng kết quả nghiên cứu đòi hỏi thời gian. Trước mắt, chúng ta vẫn có thể tiến hành một chiến dịch phòng bệnh dựa vào kiến thức trong y văn. Tôi thấy quyết định cấm sử dụng phân người để tưới rau là hoàn toàn hợp lí và rất đáng hoan nghênh. Tuy nhiên, chúng ta cần một chiến lược đồng bộ: bên cạnh đó, cần phải làm sạch nguồn nước và phát động một phong trào vệ sinh cá nhân, mà cụ thể và thiết thực nhất là tạo một thói quen rửa tay trước bữa ăn và sau khi đi tiêu hay đi tiểu. Và trong chiến dịch này, nhà vệ sinh (toilet) đóng vai trò cực kì quan trọng. (Hơn một thế kỉ trước đây, nhà vệ sinh giúp thực hiện một cuộc cách mạng về y tế công cộng ở New York, London và Paris).

Một thực tế là ở nước ta là, trong khi biết bao building ( ngay cả nhà ga máy bay ) được xây lộng lẫy, biết bao nhà hàng, cơ quan, trường học... khang trang thì nhà vệ sinh thật là sơ sài, bẩn thỉu, hôi thối. Người viết bài này đã từng xem qua các nhà xí trong các bệnh viện ở Việt Nam ( từ bệnh viện nhỏ đến bệnh viện cấp quốc gia ), ngay cả nhà vệ sinh dành cho nhân viên, bác sĩ và y tá bệnh viện, cũng rất... hãi hùng. Đó là chưa nói đến ở vùng quê, chúng ta biết rằng nhiều nhà không có cầu tiêu, và nhiều người vẫn còn đi tiêu ở trên sông, ruộng, ao, hồ, và gây ô nhiễm nguồn nước.

Hiện tượng này hoàn toàn ngược lại với các nước tiên tiến trong vùng và Tây phương, nơi mà nhà vệ sinh được xem là ưu tiên vệ sinh số 1. Chính quyền có luật bắt buộc nhà xây dựng phải có sơ đồ nhà vệ sinh cho họ kiểm tra và duyệt trước khi tiến hành xây cất.

Ở nước ta, các nạn dịch bệnh cứ “đến hẹn lại lên”, và đến nay vào thế kỉ 21, chúng ta phải nói dứt khoát rằng tình trạng đó không thể chấp nhận được nữa. Và nhà vệ sinh, một “vũ khí” phòng chống bệnh rất hữu hiệu nằm trong tầm tay chúng ta cần được các cơ quan chức năng của Nhà nước và người dân quan tâm đến hơn nữa. Phải khuyến khích, nếu cần dùng ngân sách y tế hỗ trợ cho người dân nghèo, để mỗi nhà đều có một nhà xí tốt.

Tôi nhớ đọc đâu đó lâu lắm rồi, mà trong đó tác giả kể rằng lúc Bác Hồ còn sống, cứ mỗi lần đi công tác hay thăm địa phương nào đó, bất kể là công sở hay nhà dân, điều đầu tiên là Bác vào xem cái nhà bếp và nhà vệ sinh. Thế thì không lẽ gì đến nay là thế kỉ 21, các nhà quản lý lại thiếu quan tâm đến y tế công cộng.