NewYork Paris Hà Nội Khách thứ :

NIỀM TIN TƯƠNG LAI

     

Giá trị dinh dưỡng và trị liệu của HẢI SÂM - Tiến sĩ Dược khoa Trần Việt Hưng

Trong số những vị thuốc bổ được gọi là Sâm của Đông Y, ngoài những vị thuốc có nguồn gốc từ thực vật như Nhân sâm, Đảng sâm, Đan sâm.. chỉ có một vị duy nhất do từ sinh vật sống: Đó là Hải sâm hay Sâm từ biển cả. Hải sâm còn là một món ăn được người Trung Hoa xếp vào hạng 'Mỹ vị,' dùng để đãi tiệc: Hải sâm thường được dọn dưới dạng món xào như 'Hải sâm xào nấm Đông cô' hay cầu kỳ hơn như 'Hải sâm hầm thuốc Bắc'.. Một món ăn được ghi chép là gia truyền từ Nhà Họ Khổng, do con cháu Khổng Tử lưu lại là món Bát Tiên Quá Hải Tùng La Hán trong đó Hải sâm được nấu chung với Bào ngư, Bong bóng Cá, Vi cá, Tôm, Cá, Thịt gà.. Món ăn này vẫn được xem là món đặc sản của vùng Sơn Đông, Trung Hoa.

Hải sâm là một nguồn cảm hứng cho hàng ngàn bài thơ Haiku tại Nhật, nơi mà chúng được gọi là namako, khi các bài thơ đưọc dịch sang tiếng Anh, Hải sâm được ghi là 'Sea slugs'. Hải sâm (Sea cucumber) là những sinh vật thuộc Lớp Holothuroidea ( ngành Echinodermata ). Hải sâm có thân hình trụ dài với lớp da dẻo, tròn bóng và có thể có gai sần sùi : có những loài có thân trong suốt giống như một con giun. Trong số hàng trăm loài chỉ khoảng 13 loài ăn được hoặc dùng làm thuốc. Chúng có thể dài trung bình từ 2,5 cm đến 30 cm. Loài lớn nhất là Synapta maculata dài đến 5m.

Xét về vẻ bên ngoài, nhiều người sẽ nghĩ rằng Hải sâm không có xương, nhưng nhìn qua kính hiển vi thì sẽ thấy trong cơ thể Hải sâm có những hạt calcium rất nhỏ phân bố dưới hình thức những phiến rất mỏng hay hạt nút.

Hải sâm có một miệng nơi phía đầu của thân, miệng này không hướng xuống phía dưới như các sinh vật khác. Quanh miệng có những sợi râu, từ 10 đến 30, mọc như tua, những râu này luôn luôn hoạt động dù Hải sâm không co bóp lại ( giống như ở loài Mực ). Râu Hải sâm hoạt động liên tục có lẽ là giúp bơm và hút nước, trong hệ thống hô hấp để thở.

Hải sâm có thể sống được tại những vùng nước từ cạn cỡ một vài thước đến tại những nơi độ sâu đến vài ngàn thuớc. Khả năng này rất đặc biệt vì thông thường, mỗi giống cá hay hải sản chỉ có thể sống ở những độ sâu nhất định và không chịu nổi sự thay đổi của độ sâu ( do sự khác biệt về sức ép của nước ) : trong trường hợp của Hải sâm, chúng chịu nổi sự thay đổi sức ép từ 1 đến 6 ngàn atmosphere. Ngoài Hải sâm, có lẽ chỉ có Lươn biển là có khả năng chịu đựng kỳ diệu này.

Do từ nghiên cứu của các nhà khoa học, nhất là về quân sự từ nhu cầu chế tạo các loại tầu ngầm, lặn sâu dưới nước: Vỏ ngoài của Hải sâm ( và của Lươn biển ) được khám phá là có một cấu trúc đặc biệt tạo thành bởi những chất dẻo, có khả năng co-giãn, không thấm nước, giúp cơ thể Hải sâm giử được nước trong mình dù ở những nơi có sức ép bên ngoài thật cao, và sự co giãn còn giúp phân tán được nhựng áp lực, nhất là áp lực tác động trực tiếp theo đường thẳng góc.. Nhờ đó Hải sâm chịu đựng nổi sức ép ở dưới biển sâu. Những nhà khoa học, khi đi thu nhặt Hải sâm để nghiên cứu, còn khám phá thêm một đặc tính kỳ lạ khác nữa của Hải sâm là khi chúng bị bắt hay vớt ra khỏi vùng nước lợ nơi chúng sinh sống, chúng sẽ co cứng thân lại rồi nhả ruột gan ra ngoài, tự đứt thành từng đoạn để..tự tử, nhưng 'tuy chết thật, nhưng lại chưa chết hẳn', vì sau đó trong các điều kiện thích hợp, hải sâm lại tự tái tạo được những bộ phận đã bị nhả ra ! Riêng loài hải sâm Leptosynapta lại còn kỳ lạ hơn : chúng có thể tự thu ngắn cơ thể lại từ từ, và thu ngắn đến mức chỉ còn có..râu mà thôi.

Hải sâm ăn các rong, vi tảo và các chất hữu cơ tự hoại trong nước biển. Vài loài tự đặt vào vị trí giữa các giòng hải lưu và dùng râu hay vòi để thu hút thực phẩm, chúng cũng có thể dùng vòi để hút thức ăn nơi thềm biển, và liên lạc với nhau bằng cách tiết ra các tín hiệu bằng kích thích tố thả vào nơi môi trường để đồng loại cảm nhận.

Vách thân của Hải sâm được cấu tạo bởi các chất collagen: vách có thể co giãn tùy con vật, do đó chúng có khả năng luồn lách vào các khe thật hẹp. Một số loài có khả năng tự vệ bằng cách tiết ra độc tố holothurin có thể giết các sinh vật gần bên chúng.

Hải sâm sống rất dày đặc nơi thềm biển dưới đáy sâu : Ở độ sâu dưới 8,8 km, hải sâm chiếm đến 90% khối lượng sinh vật. Tại vùng biển phía Nam Tân tây Lan, loài Squamocnus brevidentis ( Strawberry sea cucum ber ) sống tập trung đông đến 1000 con trong 1 mét vuông. Hải sâm sinh sản bằng cách thả ra trong nước tinh trùng và trứng. Tùy theo điều kiện môi sinh, một hải sâm có thể sản xuất hàng ngàn mầm sống.

Khoảng 10 % sắc tố trong máu của Hải sâm là vanadium. Tương tự như Sam, máu có màu xanh vì sắc tố hemocyanin trong máu chứa đồng ( xin đọc bài Sam ), máu của Hải sâm có màu vàng vì có sắc tố vanabin chứa vanadium ( tuy nhiên vanabin không có khả năng chuyển vận oxygen, như hemocyanin và hemoglobin )

Vài loài hải sâm dùng làm thực phấm và làm thuốc

Âu châu :

Tại Âu châu, ngoại trừ Tây ban Nha, riêng vùng Catalan (hải sâm được gọi là Espardenã) và Pháp ( Bêche de Mer ) Hải sâm không được xem là thực phẩm thông dụng. Loài Stichopus regalis là loài được đánh giá là ngon nhất, được xem là một đặc sản tại các Nhà hàng lớn ở Barcelona.

Vùng biển Hoa Kỳ :

- Thái bình dương :

Stichopus Johnsoni thuộc họ Holothuriidae, lớn khoảng 16-20 cm, gặp trong vùng biển Santa Barbara.

Stichopus californicus: Phân bố từ vùng biển Puget Sound, Washington xuống đến Monterey, California. Dài khoảng 46 cm. Thân hình ống, co giãn mạnh, lưng có những nốt xù xì. Tình trạng của thân thay đổi tùy môi trường : mềm và dẻo ở trạng thái tự nhiên nhưng khi gặp trở ngại sẽ đổi thành cứng. Thường màu nâu đỏ, vàng nhạt hay nâu hạt dẻ.

Cucumaria lubrica cũng phân bố từ PugetSound xuống đến Monterey. Thân hình ống dài, lớn chừng 5-10 cm, có những mảng calci trên thân. Màu từ trắng đến đen, phần bụng vàng nhạt. Sống nơi vùng có nhiều khe đá.

Cucumaria miniata tập trung trong vùng PugetSound. Thân dài chừng 26 cm, màu từ đỏ tươi đến nâu xậm, râu màu cam sáng.

- Đại tây dương :

Ven bờ Đại tây dương Hoa Kỳ từ Cape Cod xuống đến Carolina cũng có một số loài Hải sâm, nhưng thường không ăn được. Cái loài thông dụng gồm:

Pentamera pulcherrima dài chừng 3-5 cm, dạng như quả dưa gai, màu trắng hay vàng nhạt.

Sclerodactyla briareus, thân dạng như một cái bao, dài chừng 15cm, màu xanh lục nhạt, nâu hoặc đen.

Leptosymapta inharens, hình dạng như một con giun, thân ống dài 12-23 cm, đường kính 1 cm, thân trắng nhạt hay trong suốt.

Holothuria floridana là loài lớn nhất tại Hoa Kỳ, phân bố nơi vùng san hô ngoài khơi Florida Cucumaria frondosa , trước đây dùng làm thực phẩm, nhưng hiện nay phần lớn được sử dụng để làm thuốc hay thực phẩm bổ túc.

- Vùng biển Á châu ( Trung Hoa và Việt Nam ):

Tại Á châu, nhất là Trung Hoa, Nhật và Đông Nam Á ( kể cả Việt nam ), Hải sâm được xem là một thực phẫm quý rất được ưa chuộng nên thường bị đánh bắt quá mức, và hiện đang được nghiên cứu để nuôi tại các trại hải sản Trung Hoa.

Tại Việt Nam :

Dọc bờ biển Việt Nam có một số loài Hải sâm, còn được gọi là Đồn đột phổ biến như: Holothuria nobilis: Hải sâm vú hay Đồn đột vú. Thân hình ống kéo dài đến 40-cm, đường kính 5-6 cm. Màu xám đến nâu-đen nhạt. Dọc theo lưng và hai bên thân có những cục thịt u, lồi lên như 2 hàng vú. Bụng có nhiều chân nhỏ. Phân bố trong vùng Khánh hòa (nơi hòn Tre, hòn Đôi) xuống đến Côn đảo. Loài này cũng rất phổ biến tại các vùng biển Đông Phi, Đông Ấn độ và Thái bình dương.

Holothuria scabra: Hải sâm trắng. Thân dài đến 70 cm, trung bình 30-40 cm. Lưng màu tro xậm, hai bên nhạt hơn, bụng màu trắng. Tập trung thành những bãi lớn dọc bờ biển VN, nơi những vùng triều thấp, đáy cát và nhiều rong biển.

Holothuria vagabonda: Hải sâm đen . Toàn thân màu đen, bụng nhạt hơn, dài đến 50 cm. Sống nơi ven biển chân núi đá có sóng mạnh.

Actinopyga echinites: Hải sâm mít hay Đồn đột mít. Thân có vách dầy, giống như quả dưa leo, hình trụ dài, thon ở hai đầu và phình ra ở giữa, dài 20-30 cm, đường kính 2-4 cm. Lưng màu nâu xậm có nhiều gai thịt nhô lên. Bụng màu nhạt hơn có nhiều chân nhỏ. Vùng phân bố giống như Holothuria nobilis, sống tập trung nơi tầng đáy có nhiều san hô. Ngoài ra còn có Actinopyga mauritania hay Hải sâm mít hoa quanh các đảo thuộc vùng Khánh Hòa, Nha Trang..

Tại Nha Trang có loài Holothuria martensii, không ăn được.

Tại vùng đào Phú Quý (Phan Thiết), Việt Nam: Hải sâm được khai thác như một nguồn lợi kinh tế. Hải sâm trắng được xem là có giá cao nhất, một con có thể nặng đến 2kg, giá khoảng 50-60 USD (1triệu đồngVN), loài hải sâm vú gía từ 10-15 USD/con cung cấp cho các Nhà hàng đặc sản tại SaiGon.

Tại Trung Hoa :

Trung Hoa là quốc gia tiêu thụ và buôn bán Hải sâm quan trọng nhất: Ba thị trường chính kiểm soát giá và số lượng Hải sâm trên thế giới là Hong Kong, Singapore và Taiwan.. Số lượng hải sâm tiêu thụ tại Trung Hoa càng ngày càng gia tăng : Năm 1989 trong tổng số lượng đánh bắt trên toàn thế giới 90 ngàn tấn, vùng Nam Thái bình dương chiếm 78 ngàn tấn, phần còn lại 12 ngàn tấn do từ các vùng biển nhiệt đới. Hiện nay Trung hoa đang khai thác thêm tiềm năng nuôi hải sâm trong các trại nuôi thủy sản đồng thời nhập cảng thêm hải sâm từ Alaska (Mỹ) .

Vùng ven biển Trung Hoa (họ bao gồm luôn vủng biển quanh Trường Sa của VN mà họ gọi là Xisha) có khoảng 150 loài hải sâm trong đó 28 loài được xếp vào loại ăn được. Những loài được xem là có giá trị cao như:

Apostichopus japonicus = Prickly sea cucumber ( Bêche-de mer ) thuộc họ Sticho podidacea phân bố tại vùng Liaoning, Sơn đông, Hồ bắc, Giang tô. Đây là loài được nuôi tại các trại sản xuát thủy sản.

Stichopus chloronotus = Greenfish, phân bố tại vùng quanh Hải Nam và Trường Sa. Stichopus hermanni = quanh Đài loan, Quảng Tây, Quảng đông, Hoàng sa và Trường sa Holothuria nobilis = Black teatfish (xem phần trên), quanh Hải Nam, Trường Sa, Đài loan. Những loài tại Trường sa như Holothuria fuscogilva, H. scabra, Thelenota ananas = Hải sâm hồng, Bohadschia argus, B.marmorata..

Giá trị dinh dưỡng của Hải sâm :

Giá trị dinh dưỡng của Hải sâm đả được nghiên cứu khá kỹ lưỡng tại Trung Hoa. Các bản thông tin của Cơ quan Lương nông Quốc tế (FAO) đều dựa trên các kết quả từ Viện Nghiên cứu Nghề Cá Hoàng Hải (Thanh Đảo-Trung Hoa).

Về phương diện dinh dưỡng, Hải sâm được xem là một thực phẩm bổ dưỡng lý tưởng, chứa nhiều chất đạm (đến 55%), ít chất béo. Thành phần chất đạm gồm nhiều acid amin cần thiết. Ngoài ra hải sâm còn chứa nhiều kim loại hiếm gặp nơi các thủy, hải sản khác.

Hải sâm Apostichopus japonicus ( khô ) chứa 55,51 % chất đạm; 1,85 % chất béo. Thành phần acid amin trong H. nobilis cao nhất là Glycine (17.8%), Glutamine (11.2 %), Alanine (8.4%), cá acid amin cốt yếu như Arginine (4.95%), Leucine (2.64%)… và đặc biệt nhất lả Taurin (một acid amin có khả năng giúp sự tăng trưởng của các tế bào óc ).Thành phần khoáng chất hiếm trong H. nobilis: Chromium ( 10,1 ppm ), Đồng ( 6,1 ppm ), Strongtium (616 ppm), Kẽm (28.6 ppm). Đặc biệt nhất là trong ruột của A. japonicus, lượng Vanadium lên đến 12 ppm.

Các nghiên cứu về Hải sâm :

Độc tố trong Hải sâm :

Trong số hơn 1.100 loài hải sâm chỉ có khoảng 30 loài có chứa độc tố. Thổ dân tại các hải đảo vùng Nam Thái bình dương đã biết khai thác độc tố của hải sâm để bắt cá làm thực phẩm. Các nghiên cứu về độc tố trích từ nội tạng loài hải sâm Actinopyga agassizi ghi nhận đây là những hỗn hợp glycosides loại steroid. Các phân chất cho thấy độc tố chứa ít nhất là 6 glycosides tan trong nước. Khi thủy phân: 4 loại monosaccharide glucose, xylose, quinovose và 3-O-methylglucose, chiếm vị trí số 3 của vòng A của nhân steroid, cùng với mộ hổn hợp aglycone steroid (holothurinogenins). Một trong những phần tử được đặt tên là Holothurin A. Từ hải sâm loài Holothuria leucospilota, một hợp chất khác đã được ly trích: Holothurin B. Các holothurin cho thấy có một số hoạt tính dược học đáng chú ý. Holothurins gây độc cho khá nhiều sinh vật như giáp xác, giun đất, cá và động vật có vú, có hoạt tính huyết giải, diệt bào, độc hại thần kinh và diệt bướu ung thư. Liều độc hại cùa holothurin thô (IP) được xác định là 0.2 mg khi thử trên chuột.

Nghiên cứu tại các Trung tâm Naval Medical Research Institute, Bethesda Md; National Institute of Neurological Diseases and Blindness, Bethesda, Md; Laboratory of Marine Biochemistry and Ecology; Mount Sinai Hospital, NewYork xác dịnh hoạt tính của Holothurin tương đương với hoạt tính của các chất ngăn chặn thần kinh như cocain, procain và physostigmine khi thử trên thần kinh tọa của ếch đã bị cắt đầu. Hoạt tính của holothurin có điểm khác biệt là không thể nghịch đảo và không ảnh hưởng đến vận tốc dẫn truyền của luồng thần kinh (Journal of Pharmaco logy and Experimental Therapeutics Số 126-1959) Holothurin thô trích từ Hải sâm loài Actynopyga agassiz ( tròng vùng biển Bahama ), khi chích qua màng phúc toan của chuột đã bị gây bệnh bằng cách cấy Trypanosoma lewisi cho thấy có những khác biệt rỏ rệt, chuột nếu được chích holothurin từ trước khi bị cấy ký sinh trùng sẽ ít bị nhiễm bệnh hơn chuột đối chứng. ( The Journal of Eukaryotic Microbiology Số 17-2007 )

Các hoạt chất trích từ Hải sâm :

Nghiên cứu tại Universidad Autonomade Baja California ( Mexico ) ghi nhận đã xác dịnh được 2 triterpinoid olygoglycoside mới loại holostan là Parvimosides A và B trích từ Hải sâm Stichopus parvimensis ( Journal of Natural Products Số 68-2005 ).

Nghiên cứu tại Viện Khoa Học và Kỹ thuật VM ( Hà Nộ i) ghi nhận là ly trích được từ hải sâm Holothuria scabra, bằng methanol 2 hoạt chất loại triterpen glycoside: Holothurin A3 và A4. Hai hoạt chất này có hoạt tính diệt bào mạnh trên các tế bào ung thư dòng KB (liều IC50 của A3 là 0,87 microg/mL và của A4 là 0.32 microg/mL ), dòng Hep-G2 ( IC50 là 1,12 và 0,57 microg/mL ( Archives of Pharmacy Research Số 30-2007 ).

Nghiên cứu từ Khoa Dược, Bệnh viện Xijing, Đại Học Quân Y Tây An ( Trung Hoa ) ghi nhận 3 glycosides loại holostan Argoside F, Impatienside B và Pervicoside D trích được từ hải sâm Holothuria axiloga có những hoạt tính kháng nấm gây bệnh tương đối mạnh ( Planta Medica Số tháng 2 năm 2009 ).

Hải sâm trong Dược học Tây phương:

Dược học Âu Mỹ tuy chưa chính thức dùng Hải sâm làm thuốc, nhưng hiện đang xem Hải sâm như một nguồn cung cấp một số chất hổ trợ dinh dưỡng và các chất này có thể sẽ trở thành các thuốc đặc trị. Hải sâm do chưa được dùng phổ biến ( ngoại trừ tại Á châu ) làm thực phẩm nên các chất trích và cô đặc từ hải sâm, dùng dưới dạng viên nang mềm, đã giúp người tiêu thụ thuận tiện hơn khi muốn thử hải sâm trong mục đích trị bệnh. Hải sâm có thân thể cấu tạo bởi chất sụn, là một nguồn cung cấp rất tốt về các mucoplysaccharides, phần chính là chondroitin sulfate một chất đã được chứng minh là có khả năng giúp làm giảm đau và sưng trong các trường hợp sưng xương khớp và thấp khớp.

Tại Úc, chất trích từ Hải sâm loài Pseudocolchirus axiologus đã được thử nghiệm khá hữu hiệu để trị sưng xương khớp ( 50% bệnh nhân thuyên giảm sau 3 tháng dùng thuốc và không bị các phản ứng phụ ).

Những polysaccharides có chuỗi dài và sulfat-hóa như chondroitin còn có hoạt tính ức chế siêu vi trùng (hiện nay tại Nhật, đang có một dược phẩm đặc chế dùng chondroitin từ hải sâm để trị các bệnh do HIV gây ra, và một dược phẩm khác dùng polysaccharides từ rong biển để trị bệnh herpes do virus). Trong thương mãi, chondroitin thường được cung cấp từ sụn nơi họng bò hay sụn cá mập, còn glucosamine sulfate do từ vỏ tôm cua. Các hợp chất này cũng được tìm thấy trong Nhung, lộc nai.

Các nghiên cứu tại Nga, Nhật và Trung Hoa tìm thấy trong Hải sâm còn có các saponins ( Các triterpene glycosides, Philonopside A, Interceden sides.. ), có cấu trúc hóa học tương tự như các saponine trong Nhân sâm, Nấm Linh chi..Các saponins này có các hoạt tính chống sưng và chống ung thư do ức chế các thụ thể tyrosine kinase.

Trong dầu ( chất béo ) của Hài sâm có 2 hợp chất có khả năng chống sưng: một trong hai chất có những đặc điểm tương tự như dầu cá, và chất thứ nhì là một hỗn hợp các acid béo có nhánh, phần chính là 12-MTA ( methyltetradecanoic acid ). Hợp chất này (và một hợp chất biến đổi khác 13-MTA) là những chất ức chế rất mạnh hoạt động của Hệ men 5-LOX ( Lypoxygenase system ). Nhóm chất ức chế 5-LOX đang được nghiên cứu để chế tạo các dược phẩm trị suyển, sưng loét ruột, và thấp khớp. Các acid béo này có lẽ do các vi sinh vật sống trong hải sâm sản xuất ra. Dầu từ Hải sâm cũng đang được nghiên cứu để trị ung thư prostate do hoạt tính giúp tăng sự hoạt động của men Caspase-3 (The Prostate số 55-2003).

Chất trích từ hải sâm được dùng trong kem đánh răng 'Gamadent' với hoạt tính được cho là có khả năng giúp trị các bệnh sưng nướu răng (lợi) kinh niên (Journal of Oral Science Số 45-2003).

Hải sâm trong Đông dược :

Hải sâm tuy được dùng làm thực phẩm tại Trung Hoa từ lâu đời, các món ăn từ hải sâm thường được dùng đễ đãi tiệc trong các dịp lễ như Tết Nguyên đán, nhưng Dược học cổ truyền Trung Hoa chỉ chính thức ghi chép về Hải sâm trong tập 'Bàn thào Cương Tân' của Wu Yiluo vào 1757. Hải sâm còn có các tên khác như Phương thích sâm ( Fangci shen: Fang= Phương=4 cạnh; Ci=Thích=gai ), hay rút gọn thành Phương Sâm. Thích sâm Hải sâm dùng làm thuốc trong Dược học cổ truyền Trung Hoa thuộc loài Stichopus japonicus đánh bắt trong những vùng biển Bắc trung Hoa. Dược học Kampo (Nhật) gọi là Kaijin, Triều tiên là Kaesam.

Phương thức chế biến :

Sau khi đánh bắt, Hải sâm được loại bỏ nội tạng, rửa sạch cát, chất bẩn, sau đó nấu chín trong nước muối, để nguội và phơi khô dưới nắng đến khoảng 80%, sau đó nấu lần thừ nhì và phơi lại đến khô hẳn. Tại Indonesia, Hải sâm khô, chế biến theo phương thức này được gọi là Trepang.

Theo Đông Y :

Hải sâm có vị mặn/ngọt, tính ấm tác động vào các kinh mạch thuộc Can và Thận có các tác dụng:

'Bổ Thận', 'trợ Tinh', trợ Dương, tăng cường Thận-khí được dùng để trị các chứng suy nhược về sinh lý, trị di tinh ( xuất tinh ban đêm khi đang ngủ ), đi tiểu ban đêm, bần tinh (thiếu tinh trùng). Hải sâm thường được nấu với thịt Trừu, thêm gừng.

Bổ Huyết, Chỉ huyết ( cầm máu ), trị thiếu máu với các triệu chứng mỏi mệt : dùng Hải sâm nấu với thịt heo.

Canh Hải sâm bổ thận :

Theo 'Sexual life in Ancient China', món canh bổ thận được ghi lại như sau :

- Thành phần:

- Hải sâm 400 gram ( thái mỏng sau khi chế biến từ hải sâm khô ) .

- Hoài sơn 15 gram ( nghiền thành bột ) .

- Đương quy 10 g .

- Hải tảo khô, một miếng lớn cắt thành sợi .

- Bột miso 150 gram .

- Hành ta 3 củ, thái mỏng .

- Nước 750 ml .

Cách làm : Nấu nước sôi, thêm hải tảo vào, rồi nấu trong 3 phút, vớt bỏ xác hải tảo, thêm vào hải sâm đã thái mỏng, hoài sơn và các vị thuốc. Đun nhỏ lửa trong 5 phút. Gia thêm tiêu, hành tùy nghi.

Món Canh này được ghi là : Bổ thận, Cố tinh trị di tinh, đau lưng, tăng sức và trợ dương.

Hải sâm xào Mướp đắng trị Tiểu đường;

Theo lý thuyết Đông Y thì Hải sâm và Khổ qua ( Mướp đắng ) đều có tác dụng 'Bổ Âm', đều quy vào Can và Thận. Cả hai đều bồi bổ Chân Âm, giúp tạo quân bình với Dương, giúp 'Thủy' nơi Thận cân bằng với 'Hỏa' ( Hỏa thăng gây nóng Tam tiêu, sinh bệnh Tiêu khát = Tiểu đường ), làm Âm mạnh để quân bình với Dương, trừ được Nhiệt tạng, giúp người bệnh tiểu đường không khát, không đói, mát trong người.

Theo sự tin tưởng dân gian, Hải sâm được xem là một phương thuốc trợ dương, trị được bất lực về sinh lý. Lý do là khi hải sâm bị tấn công, đè bắt, chúng phình to lên, co cứng thân rồi phóng ra một tia nước từ hậu môn, có thể tương tự như sự cương cứng và phóng tinh của bộ phận sinh dục phái nam. Sau khi phóng tia nước có chứa các chất phòng vệ, hãi sâm lại trở vế trạng thái mềm như trước.

Tài liệu sử dụng :

Harper & Row's Complete Field Guide to North American Wild Life ( Werstern and Eastern Editions ).

Từ điển Động vậ & Khoáng vật làm Thuốc ở Việt Nam ( Võ văn Chi )

Sea Cucumber: Food and Medicine ( Subhuti Dharmananda ) .

Sea Cucumbers ( Alexander Kerr ) : www.tolweb.org/Holothuroidea.

FAO Corporate Document Repository :

- Present Status and Prospects of Sea cucumber Industry in China (Jiaxin Chen).

- Present Status of World sea cucumber Resources and Utilisation : An International Overview (Chantal Conand).