Tham nhũng là hiểm họa của nhân loại - Trần Bình
Giặc nội xâm - Nhận dạng
Một trong những nội dung đáng lưu ý trong tập tài liệu Cải cách Hành chánh và Chống Tham nhũng do Liên Hiệp Quốc ấn hành tháng 5 năm nay là sự tồn tại của tham nhũng trong thời kỳ bao cấp . Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã sớm nhận ra mầm móng và nguy cơ của tham nhũng, gọi tên chúng là giặc nội xâm.
Khi qui mô nền kinh tế tăng truởng theo hướng thị trường và hội nhập, đồng đô la đổ vào càng nhiều, giặc nội xâm phát càng nhanh. Ngày nay, nạn tham nhũng đã là hiểm họa của đất nước. Hiểm họa tham nhũng được các đảng viên đã từng giữ trọng trách trong guồng máy nhà nước mô tả khá xác thực.
Nguyên Trưởng ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam bộ, nhà báo Trần Bạch Đằng đã nổ phát pháo đầu xuân năm 2006 trên Tuổi Trẻ qua bài viết Nã Đại bác vào Tham nhũng: "Nạn tham nhũng đang đe dọa toàn diện sự phát triển kinh tế cùng đạo đức xã hội - không thể không xem đó là điều nhục. Ăn cắp của công, lừa gạt, chiếm đoạt sức lao động của người khác, chăm bẳm khai thác tiềm lực quốc gia để bỏ túi riêng, hình thành những công ty gia tộc, những bè đảng, thậm chí liên kết với xã hội đen... không còn lẻ tẻ nữa. Không diệt trừ một số hang ổ tham nhũng, nhất là những hang ổ lớn thì nỗ lực chung của chúng ta sẽ bị vô hiệu hóa, thậm chí bị phản bội - phản bội ở ý nghĩa cao nhất của từ này".
Nguyên Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản, tướng Trần Quốc Bảo trong bài viết tháng 6/2009, góp ý cuộc hội thảo chủ đề “Chủ thuyết phát triển của Việt Nam” do Hội đồng Lý luận Trung ương Đảng chủ trì, đã nhận định: "Không ít học giả trên thế giới và trong nước, những học giả chân chính, đích thực đã cảnh báo: Đã có những dấu hiệu đổi mới, cải cách đang trượt dài sang không phải chủ nghĩa tư bản hiện đại mà là sang chủ nghĩa tư bản ‘xấu xí’, chủ nghĩa tư bản sơ khai với những đặc trưng cực kỳ man rợ, trong đó có 2 đặc trưng đáng chú ý: Xuất hiện một luồng cực mạnh kinh tế ngầm lộng hành, chi phối sự vận động của xã hội với sự móc ngoặc của 2 thế lực đen: thế lực chủ nghĩa mafia ngoài xã hội, thế lực đen của những phần tử thoái hóa biến chất trong bộ máy cầm quyền. Và một bộ máy công quyền hư hỏng, vô cảm, tham nhũng, quan liêu, hách dịch, thiếu chuyên nghiệp, ít hiểu biết, xa rời nhân dân, dị ứng dân chủ".
Từ một góc nhìn khác, nhóm nghiên cứu tài liệu Cải cách Hành chánh và Chống Tham nhũng nhấn mạnh đến mối tương quan giữa tham nhũng và tính chính danh ( legitimacy ) của chế độ: "tham nhũng hủy hoại tính chính danh chính trị". Quan điểm này cũng được Giáo sư David Dapice, Harvard, phân tích trong tiểu luận Vì sao cuộc Cải cách tại Việt Nam lại khó khăn đến thế ? "Dẫu có hạn chế về phương diện cạnh tranh chính trị, nhưng hệ thống chính trị một đảng hữu hiệu của Singapore được hậu thuẫn rộng rãi. Chừng nào nhà nước cung cấp được các tiện ích công cộng có chất lượng, như y tế, giáo dục, và nhà ở, thì nhà nước ấy được xem là chính danh. Lẽ dĩ nhiên, Singapore hiện thuộc trong số các quốc gia ít tham nhũng nhất trên thế giới" .
Tham nhũng còn là nguồn gốc của bất công và bất ổn xã hội, thậm chí đe dọa sự sống còn của chế độ. Một quan điểm rất nhất quán trong các tài liệu nghiên cứu về tham nhũng cho rằng dân nghèo là thành phần bị thiệt hại nặng nhất, vì không đủ khả năng hối lộ. Nỗi bất mãn của người dân trước sự lộng hành của tham nhũng dẫn đến sự phản kháng. Cuộc bạo động chấn động dư luận tại Thái Bình năm 1998 và các cuộc biểu tình xô xát của nông dân phản đối tham nhũng đất đai tại Việt Nam và Trung Quốc là những ví dụ.
Nội dung được thảo luận trong bài viết gồm ba phần. Phần I Tổng quan - Bối cảnh và Vị thế, phác họa một cái nhìn bao quát về tham nhũng trên thế giới, khu vực, và quá trình phát triển tại Việt Nam. Phần II Những luận điểm quan trọng và Phần III Kết luận, tóm lược và bàn về những luận điểm quan trọng trong tài liệu UNDP.
I. Tổng quan :
1. Bối cảnh :
Tham nhũng là hiểm họa của nhân loại, đặc biệt tại các nước kém phát triển. Theo tài liệu "Chống Tham Nhũng" do Ngân hàng Phát triển Á Châu ấn hành năm 1998, Khoảng 30 tỷ USD tiền viện trợ cho Châu Phi lọt vào tay tham nhũng, được ký thác tại các ngân hàng nước ngoài; số tiền này lớn gấp hai lần GDP của Ghana, Kenya, and Uganda gộp lại. Một quốc gia ở Đông Á đã thất thoát khoảng 48 tỷ USD trong hai mươi năm qua, vượt quá số của nợ nước này là 40,6 tỷ USD. Tại nhiều quốc gia, nguồn thuế bị thất thu đến 50% .
Theo ước tính của World Bank (WB) năm 2001 - 2002, chỉ riêng tham nhũng dưới dạng hối lộ cho các dịch vụ công lên đến khoảng một ngàn tỷ USD trong nền kinh tế thế giới khoảng 30 ngàn tỷ USD lúc bấy giờ. Song đây cũng chỉ là một trong những dạng thức tham nhũng. Ví dụ dưới hình thức biển thủ, lạm dụng công quỹ, tài sản quốc gia, tổ chức Minh bạch Thế giới ( Transparency International ) ước tính nguyên Tổng thống Indonesia Suharto đã tham nhũng khoảng 15 - 35 tỷ USD, Marcos ở Philippines, Mobutu ở Zaire, và Abacha ở Nigeria mỗi vị khoảng 5 tỷ USD .
Nạn tham nhũng tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương khá cao, chỉ đứng sau Châu Phi và khu vực Tân Quốc gia ( Russia, Ukraine, Moldova ) trong số 8 khu vực, theo Báo cáo Tham Nhũng Toàn cầu năm ngoái ( GCR-2008 ). Cuộc điều tra tìm hiểu tỷ lệ hộ dân cư hối lộ cho cảnh sát và tòa án, là hai lĩnh vực tham nhũng cao nhất trong tổng số 11 địa hạt được điều tra. Kết quả cuộc điều tra cho thấy một phần ba hộ dân cư khu vực Châu Á TBD đã hối lộ cho cảnh sát và hơn 20% hộ đút lót cho tòa án .
Mối liên hệ giữa tham nhũng và phát triển là một trong những kết luận quan trọng của Bảng Báo cáo Tham nhũng Toàn cầu năm nay ( Global Corruption Report 2009 : GCR-2009 ) do tố chức Minh bạch Quốc tế thực hiện. Mặc dù có những trường hợp ngoại lệ, song GCR-2009 khẳng định mối liên hệ giữa mức độ tham nhũng và lợi tức đầu người của mỗi quốc gia. Bảng xếp hạng Chỉ số Tham nhũng (CPI - Corruption Perception Index ) đựa trên thang điểm từ 1-10, điểm càng thấp tham nhũng càng cao, nhóm nghiên cứu ước tính rằng, cứ mỗi điểm đạt được sẽ dẫn đến sự gia tăng nguồn ngoại thu tương đương với 0,8 % GDP, và tăng lợi tức đầu người 4% .
Mối quan hệ này cũng được các tài liệu nghiên cứu của WB xác minh: "Trong trường kỳ, các quốc gia cải thiện được việc kiểm soát tham nhũng và luật pháp có thể nâng lợi tức đầu người lên 4 lần, gia tăng mức tăng trưởng GDP hàng năm từ 2 đến 4%, và giảm tử suất trẻ sơ sinh 75%" .
Mối liên hệ giữa tham nhũng và phát triển được tập đoàn dịch vụ địa ốc và tài chính quốc tế Jones Lang LaSalle minh họa trong biểu đồ sau đây:
2. Vị Thế :
Chỉ số tham nhũng của Việt Nam được của tổ chức Minh bạch Toàn cầu (TI) theo dõi từ năm 1998 qua bảng xếp hạng Chỉ số Tham nhũng. Kết quả của các cuộc điều tra hàng năm này phù hợp với nhận định của Hoàng Tư trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn (TBKTSG) ngày 14/5/2009: "vẫn là một điệp khúc - đạt một số kết quả bước đầu... kết quả còn hạn chế". Vị trí tham nhũng của Việt Nam năm 2008 ( 121/180 - đầu 1/3 cuối bảng ), cao hơn vị trí ban đầu năm 1998 ( 43/52 - giữa 1/3 cuối bảng ). Điều này không thể hiện sự tiến triển của Việt Nam trong nỗ lực chống tham nhũng, vì số nước tham dự cuộc điều tra đã tăng hơn ba lần trong giai đoạn 1998-2008, tức là mẩu điều tra đã thay đổi rất lớn. Song nó cho thấy một cách bao quát vị trí tham nhũng của Việt Nam hiện nay trong cộng đồng thế giới.
Quá trình và hiện trạng của tham nhũng Việt Nam trong mối tương quan cạnh tranh với các nước trong khu vực biểu hiện rõ nét hơn qua điểm số tổng hợp đo lường mức độ tham nhũng trải dài hơn thập niên qua. Kết quả dưới đây cho thấy điểm số tham nhũng của Việt Nam vẫn ở tình trạng dậm chân tại chỗ, hầu như không thay đổi trong suốt giai đoạn 1997-2008 với các điểm số 2,8, 2,6, 2.7. So sánh với các nước trong khu vực, vị thứ tham nhũng hiện nay của Việt Nam khá hơn Indonesia 5 bậc, Philippines 20, và xấu hơn Thái Lan 41 bậc, China 49, Malaysia 74, Hong Kong 109, và Singapore 117 bậc .
Đất đai hiện là nguồn tham nhũng lớn nhất tại Việt Nam, như Nguyên Tấn đã viết trên TBKTSG tháng 5/2009: "Đất đai có thể nói đã và đang trở thành một nguồn lợi béo bở nhất, đồng thời cũng dễ dàng nhất cho nạn tham nhũng hiện nay". Theo cuộc điều tra tham nhũng năm 2005 do Ban Nội chính đảng Cộng sản phối hợp với Thụy Điển thực hiện, địa chính và nhà đất là hai cơ quan đứng đầu trong danh sách 10 cơ quan tham nhũng. Kế đến là quản lý xuất nhập khẩu, công an giao thông, cơ quan tài chánh, thuế, quản lý ngành xây dựng, y tế, kế hoạch, đầu tư, và công an kinh tế . Tham nhũng đất đai cũng được tường thuật nhiều nhất trên báo chí trong nước, chiếm 20,4% trên tổng số các phóng sự và điều tra về tham nhũng, thể theo tài liệu nghiên cứu của McKinley, Catherine .
Luồn lách qua ngõ ngách các công cụ chính sách, tham nhũng đất đai phát sinh từ chủ trương chuyển đổi đất nông nghiệp với hàng ngàn kế hoạch treo, các khu, cụm công nghiệp, sân golf thành lập tràn lan, gây bao nỗi hoang mang, bất an, khốn khó cho dân chúng. Theo số liệu công bố, tính đến tháng 5/2009, cả nước có khoảng 1.200 dự án “treo” với diện tích trên 130.000 ha, 194 khu công nghiệp trung ương và 650 cụm công nghiệp địa phương chiếm 76.600 ha, và nếu 144 dự án kinh doanh sân golf đã được cấp phép hoặc có chủ trương cho phép đều trở thành hiện thực thì sẽ chiếm 44.580 ha.
Hệ quả của "phong trào địa phương giao đất" này, theo ông Hoàng Tuấn Hiệp, Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, khiến tình trạng đất nông nghiệp vốn đã manh mún, càng "trầm trọng hơn do sự hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất, sân golf... trên các cánh đồng, đã, đang và sẽ phá vỡ hệ thống thủy lợi và gây ô nhiễm nặng tại các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa " .
Trên TBKTSG, tháng 5/2009, Nguyên Tấn viết : "Hệ quả là với tình trạng cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng tràn lan ở các địa phương, hàng loạt héc ta bờ xôi ruộng mật lần lượt bị thế chỗ bởi các dự án chuyển đổi mục đích sử dụng, để rồi thậm chí bị bỏ hoang do dự án treo, chủ đầu tư không có năng lực; hay hàng loạt khu rừng đặc dụng, rừng phòng hộ bị tàn phá nặng nề khi chuyển đổi mục đích sử dụng" .
Báo cáo và bảng xếp hạng Chỉ số Minh bạch Thị trường Bất động sản trên thế giới do tập đoàn dịch vụ địa ốc và quản lý tài chính Jones Lang LaSalle thực hiện là nguồn dữ liệu tin cậy khác về hiện trạng tham nhũng tại Việt Nam liên quan đến đất đai. Chỉ số này đánh giá tính minh bạch của thị trường bất động sản dựa trên nhiều yếu tố như: tài sản được niêm yết, môi trường luật pháp và cách thức giao dịch, việc vận dụng và hiểu những quy định pháp luật một cách đúng đắn, sự tôn trọng quyền sở hữu ...
Báo cáo Chỉ số minh bạch Bất động sản thực hiện hai năm một lần. Trong hai bảng xếp hạng năm 2004, 2006, Việt Nam được xếp vào nhóm thấp nhất ( không minh bạch ). Năm 2008, vị thứ Việt Nam tuy được cải thiện lên nhóm Minh bạch thấp, song với hạng thứ 77/82 quốc gia, chỉ số minh bạch của thị trường bất động sản của Việt Nam vẫn còn quá yếu kém. So sánh với các nước trong khu vực, chỉ số minh bạch của Việt Nam xấu hơn Indonesia 22 bậc, Philippines 29, Thái Lan 31, Malaysia 54, và Singapore 68 bậc .
Vị trí về tính minh bạch thị trường bất động sản của Việt Nam trong khu vực và mối liên hệ giữa tính minh bạch này với tình trạng tham nhũng được biểu hiện trong hai biểu đồ sau đây
Tập tài liệu Tham nhũng, Cải cách Hành chánh và Phát triển (1) do Chương trình Hỗ trợ Phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP) ấn hành tháng 5/2009 là một công trình nghiên cứu quan trọng về vấn đề tham nhũng tại Việt Nam. Tiểu luận này đã tổng hợp được nhiều tài liệu nghiên cứu giá trị, đưa ra những luận điểm sắc bén, nêu bật lên được những vấn đề mấu chốt. Kể từ khi có cuộc điều tra tham nhũng lần đầu do đảng Cộng sản Việt Nam ( Ban Nội chính ) thực hiện với sự hợp tác của Thụy Điển năm 2005 gây không ít xôn xao trên công luận, đây là một tài liệu có tầm cỡ, với những phân tích rất thẳng thắn, được công bố trên diễn đàn của nhà nước, thông qua cuộc hội thảo về cải cách hành chính công tổ chức tháng Ba năm nay.
Tài liệu này được soạn thảo dưới sự hướng dẫn của giáo sư Gainsborough, đại học Bristol, Anh quốc, với sự góp mặt của Tiến sĩ Đặng Ngọc Dinh và Bà Trần Thanh Phương.
II. Những Luận điểm quan trọng :
1. Hệ quả của tham nhũng đối với nền kinh tế là khía cạnh ít được đề cập đến trong các công trình nghiện cứu, vì mức tăng trưởng kinh tế khả quan của Việt Nam mặc dù tình trạng tham nhũng vẫn lan tràn. Tuy nhiên, có những lý do quan trọng để bài trừ nạn tham nhũng, đó là sự công bằng xã hội, sự bình đẳng, và sự cần thiết phải ngăn chận khả năng hủy hoại tính chính danh của chế độ (p 17-18).
2. Sự phát triển kinh tế nhanh chóng dẫn đến những thay đổi rộng lớn về mặt xã hội, dân chúng ngày càng kỳ vọng nhiều hơn vào sự thay đổi của nhà nước và ít kiên nhẫn hơn đối với tệ trạng nhũng nhiễu. Mặc dù người dân đã quen với tham nhũng trong cuộc sống thường nhật, song thành phần dân chúng bất mãn ngày càng gia tăng. Như vậy, rõ ràng có sự liên hệ rõ rệt giữa mức độ thỏa mãn của người dân đối với các dịch vụ công và sự ổn định của chế độ. Số lượng các cuộc biểu tình chống tham nhũng đất đai gia tăng là một ví dụ. Về phương diện kinh tế, mặc dù doanh nhân có thể vượt qua vô số qui định trong hoạt động kinh doanh, song đã tỏ rất bực dọc vì phải hao tốn và mất nhiều thì giờ đi đi, lại lại với các viên chức nhà nước (p 18-19) .
3. Đã có khá nhiều tài liệu nghiên cứu về tình trạng tham nhũng dưới thời kỳ bao cấp. Song, quá trình thị trường hóa và hội nhập hóa nền kinh tế đã tạo thêm cơ hội cho tham nhũng vì khối lượng tiền bạc đổ vào. Đồng thời, khi nền kinh tế được tự do hóa, vai trò của nhà nước đã không giảm, mà vẫn duy trì vị thế trung tâm của các hoạt động kinh tế, và do đó, tạo thêm điều kiện cho tham nhũng (p 12).
4. Tham nhũng thường xảy ra dưới ba hình thức. Hối lộ hay còn gọi là "bôi trơn" diễn ra ở mọi lĩnh vực, kể cả ngành giáo dục. Tư nhân hóa bất hợp pháp tài sản nhà nước thông qua các công cụ chính sách cổ phần hóa, thị trường chứng khoán, sự hình thành của thị trường đất đai, hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần, các công ty mẹ và con. Việc mua bán quyền lực diễn ra qua việc tuyển dụng, bổ nhiệm, bán chức năng thuộc phạm vi hành sự của viên chức nhà nước cho tư nhân, bao gồm cả các nhóm tội phạm như trường hợp của Năm Cam (p 16-17).
5. Một đầu mối tham nhũng khác thường được các nhà nghiên cứu kinh tế Việt Nam lưu ý là cái ranh giới mập mờ giữa hai khu vực kinh tế công và tư (p 13). Trong tài liệu nghiên cứu ấn hành năm 2008, Beresford bàn về mối quan hệ mật thiết và nguy hiểm giữa các viên chức chính trị và giới doanh nhân như là một trong những hình thái tham nhũng (p. 20, 30).
Mối quan hệ này được Ông Lê Đăng Doanh và báo chí trong nước gọi là các "doanh nghiệp sâu sau", Ông Trần Bạch Đằng và Tướng Trần Quốc Bảo mô tả là các "công ty gia tộc", "sự móc ngoặc của 2 thế lực đen: thế lực chủ nghĩa mafia ngoài xã hội, thế lực đen của những phần tử thoái hóa biến chất trong bộ máy cầm quyền." (Phần I).
6. Đảng và nhà nước Việt Nam luôn phủ nhận các phân tích cho rằng sự thất bại của chính sách chống tham nhũng là do sự thiếu quyết tâm của lãnh đạo, quy kết nguyên nhân thất bại cho sự bất cập trong luật định, năng lực yếu kém và đạo đức suy đồi của cán bộ trước những đổi thay nhanh chóng của thời kỳ đổi mới, việc thực thi kém hiệu quả chính sách chống tham nhũng (p 20).
7. Tuy phẩm chất cá nhân và sự yếu kém của luật định là những yếu tố liên quan đến tham nhũng, song sẽ sai lầm nếu xem chúng là những vấn đề trung tâm của tham nhũng:
Tham nhũng tại Việt Nam thực chất là một vấn đề mang tính hệ thống (p 21).
8. Là vấn đề hệ thống vì tham nhũng không phải là biệt lệ mà là thông lệ, sự vận hành bình thường của hệ thống (p 21). Hầu nhưng không thể tiến hành được công việc nếu không ít nhiều dính dáng đến tham nhũng. Dân chúng và doanh nhân tham gia cuộc điều tra đều nói rằng họ không có sự lựa chọn nếu muốn chạy việc hay được trúng thầu (p 14). Về phía những người làm việc trong guồng máy, cũng như người Việt nói chung, hầu hết là những người tốt, song khi vào làm việc cho hệ thống, họ buộc phải thực hiện một số hành vi nhất định để có thể tồn tại trong hệ thống đó (p 26).
9. Tính hệ thống là vì tình trạng các văn bản pháp lý ở Việt Nam thường thiếu rõ ràng và chồng chéo, không phải do khâu thiết kế hay khả năng yếu kém của các cá nhân soạn thảo, mà bởi vì có sự tồn tại một logic mang tính cố hữu trong hệ thống đòi hỏi các quy định phải như vậy để làm phương tiện cho việc lạm dụng quyền lực và tạo cơ hội thu lợi cho cá nhân (p 22).
Ảnh hưởng của các nhóm đặc quyền, đặc lợi trong việc xây dựng và thực thi chính sách là mối quan tâm hàng đầu của nhóm nghiên cứu Hardvard trong các tài liệu nghiên cứu. Vấn đề hệ trọng này cũng được bà Phạm Chi Lan, nguyên cố vấn Văn Phòng Thủ Tướng, đề cập đến trong cuộc hội thảo về cải cách hành chính công tháng 3/2009: "khe cửa" khác mà tham nhũng có thể "lách", đó là "cài cắm lợi ích cục bộ khi soạn thảo luật, cơ chế". Với tư cách người tham gia vào nhiều dự án luật, bà Lan cho hay, con đường để đưa những điều khoản công khai, minh bạch vào luật "rất chật vật" .
10. Tính hệ thống còn là vì xu thế coi công quyền như công cụ để làm giàu cá nhân, căn cứ theo tình trạng chạy chức, chạy quyền phổ biến ở Việt Nam. Những đối tượng có xu hướng "mua" một chức vụ nào đó không phải vì mục đích tốt, mà vì vụ lợi, ví dụ như để thu lại khoản đầu tư ban đầu mà họ đã bỏ ra.
Một xu thế phổ biến khác, mang sắc thái văn hóa theo quan niệm "một người làm quan cả họ được nhờ", các viên chức nhà nước chỉ chú tâm đến việc chăm lo phục vụ mạng lưới cá nhân hơn là cho lợi ích công, biểu hiện rõ nhất trong các khâu tuyển dụng, bổ nhiệm nhân sự (p 22).
11. Hiểu được tính hệ thống của vấn nạn tham nhũng sẽ thấy được rằng đạo đức, hay lương thấp chỉ là các nguyên nhân thứ yếu, và việc làm rõ các quy định hầu như không thể thực hiện được chừng nào cái logic chi phối hệ thống vẫn tồn tại (p 22,23).
12. Điểm mấu chốt trong các khuyến nghị của nhóm nghiên cứu là nâng cao tính minh bạch của tất cả các khía cạnh hoạt động của nhà nước nhằm kiểm soát quyền lực của bộ máy công quyền. Sự minh bạch hóa các hoạt động nhà nuớc sẽ làm rõ trách nhiệm của các cơ quan và buộc các cơ quan này phải trả giá đắc cho các hành vi tham nhũng (p 24).
13. Các biện pháp nâng cao tính minh bạch gồm việc công khai hóa các tài liệu nhà nước, như các cuộc thanh tra, kiểm toán, các hoạt động tòa án, và nâng cao tính độc lập của cán bộ thanh tra, các cơ quan giám sát, giải quyết khiếu nại (p 25).
Vế thức hai của khuyến nghị nhằm thúc đẩy tính minh bạch là nâng cao vai trò của xã hội dân sự và các cơ quan truyền thông trong nỗ lực giám sát các hoạt động nhà nước, qua việc xây dựng môi trường luật định khuyến khích và bảo đảm an toàn cho công dân, báo chí dám đứng ra tố giác, điều tra tham nhũng (p 26).
III. Kết luận :
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là nguồn chủ lực đẩy mạnh mức tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù tình trạng tham nhũng vẫn lan tràn, song FDI đổ vào Việt Nam vẫn gia tăng, vì dưới mắt của các nhà đầu tư, tham nhũng tuy phổ biến, rất phiền hà, song là những khoản hao tốn tương đối nhỏ, và chi phí sản xuất tại Việt Nam vẫn còn thấp vì những yếu tố thuận lợi khác. Theo Báo cáo Phát triển Việt năm 2006 của Ngân hàng Thế giới, tham nhũng tại Việt Nam chiếm khoảng 0.7% tổng doanh số (3).
Tuy nhiên, từ góc độ quốc gia và về lâu dài, những tổn thất về kinh tế do tham nhũng gây ra không thể xem là không nghiêm trọng và không phải là lý do quan trọng của công cuộc chống tham nhũng, như theo phân tích của nhóm UNDP.
Báo cáo Phát triển Việt Nam 2006 phân tích: "Tình trạng tham nhũng ảnh hưởng đến kinh doanh là rất phổ biến, song đó chủ yếu là những tham nhũng nhỏ. Nhưng điều này không có nghĩa là có thể bỏ qua các hình thức tham nhũng khác ở Việt Nam, như tham nhũng trong các doanh nghiệp nhà nước và các đầu tư công" (4). Những thất thoát to lớn này, mà vụ PMU 18 cũng chỉ mới hé mở một góc nhỏ, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư, hiệu năng kinh tế khu vực công, và năng lực cạnh tranh của Việt Nam. Nạn phá rừng bất hợp pháp ở qui mô lớn diễn ra từ nhiều năm qua đã hao tổn biết bao tài nguyên quốc gia và tác hại như thế nào đến tương lai ngành lâm sản ? Sông nước, đất đai bị ô nhiễm nghiêm trọng do hóa chất độc hại thải ra vì tham nhũng ở khâu thanh tra sẽ ảnh hưởng thế nào đến ngành nông thủy sản và đời sống của bà con nông thôn ?
Con đường dẫn đến sự phát triển bền vững sẽ còn lắm chông gai chừng nào chỉ số tham nhũng của Việt Nam vẫn thấp là đà ở nửa phần cuối của bảng xếp hạng tham nhũng.
Một khía cạnh quan trọng khác là tuy tài liệu UNDP đã xác định rõ được các yếu tố cấu thành tính hệ thống của nạn tham nhũng, song liệu rằng các biện pháp chống tham nhũng do nhóm khuyến nghị có tính khả thi?
Nếu như theo phân tích của nhóm nghiên cứu, những ảnh hưởng chi phối quá trình soạn thảo và thực thi luật định là đầu mối chính của tham nhũng, thì làm thế nào có thể thực hiện thành công "lộ trình minh bạch" các hoạt động nhà nước và nâng cao vai trò của xã hội dân sự và báo chí trong khi các thế lực ảnh hưởng kia vẫn tồn tại ?
Vì vậy, mấu chốt chất của vấn đề, như đã nêu lên trong tài liệu Lựa chọn Thành công - Bài học từ Đông Á và Đông Nam Á của nhóm Harvard , là liệu Việt Nam có đủ quyết tâm chính trị chống lại những nhóm đặc quyền đặc lợi mà mục tiêu không phù hợp với mục tiêu chung của quốc gia để tránh dẫm vào vết đổ của một số nước Đông Nam Á ?
Nói một cách khác, như theo Bà Phạm Chi Lan, "Chừng nào vẫn còn có các nhóm lợi ích thao túng việc làm luật thì vẫn còn một thứ văn hóa tồi là tham nhũng" .
|