NewYork Paris Hà Nội Khách thứ :

NIỀM TIN TƯƠNG LAI

     

Hiện Trạng Bệnh HIV/AIDS - BS Nguyễn Ý-Đức , Kiều bào Mỹ

XÉT NGHIỆM LÀ TÌM KHÁNG THỂ HIV - SIDA

Xét nghiệm là cách duy nhất để biết mình có nhiễm HIV không?

Có bạn nói: "Nếu bị mắc AIDS có nghĩa là chết. Không có thuốc thì biết được hay không có giải quyết vấn đề gì đâu". Xét nghiệm hay không là tùy quan điểm mỗi người. Biết mình bị nhiễm HIV người ta hay có lúc hoảng sợ, lo lắng. Nhưng nếu biết được thì cũng có một cái lợi. Bạn sẽ biết mà chú ý sǎn sóc sức khỏe bản thân chu đáo hơn. Vả lại, nếu có nhiễm HIV mà không biết thì có khi ta vẫn tiếp tục sống không cẩn thận, mang HIV lây cho người khác thì tội người ta lắm.

Người ta thường gọi là xét nghiệm HIV hay xét nghiệm AIDS, nhưng về thực chất nó không phải là xét nghiệm tìm con vi rút HIV. Khoảng 3 đến 6 tháng sau khi HIV vào cơ thể, cơ thể sẽ tạo ra chất kháng thể chống lại HIV. Đáng buồn là kháng thể này bất lực, không trị được HIV. Nhưng kháng thể là dấu hiệu cho thấy có nhiễm HIV. Do đó xét nghiệm là tìm kháng thể HIV.

Nhược điểm của cách xét nghiệm này là có khi có nhiễm vi rút HIV nhưng không tìm ra kháng thể vì kháng thể chưa có. Do đó người ta rất lưu ý "thời kỳ cửa sổ".

Thời kỳ cửa sổ: là thời gian sau khi đã nhiễm HIV nhưng cơ thể chưa kịp tại kháng thể hoặc lượng kháng thể sinh ra quá nhỉ. Xét nghiệm khi đó chưa tìm được mầm bệnh. Thường thì thời kỳ này là trong vòng 3 tháng, cũng có người dài hơn, nhưng nói chung không quá 6 tháng.

Ba loại kết quả xét nghiệm:

Dương tính: trong máu có kháng thể kháng HIV, có nghĩa là bạn có HIV. Chỉ có trường hợp trẻ sơ sinh là khác, vì có khi bé không có vi rút HIV nhưng lại có kháng thể của mẹ truyền sang.

Âm tính: trong máu không có kháng thể kháng HIV. Có hai khả nǎng: hoặc là bạn không có HIV, hoặc là bạn có HIV nhưng đang ở trong "thời kỳ cửa sổ''.

Không rõ: Nguyên nhân có thể là do bạn đang ở trong "thời kỳ cửa sổ", cũng có thể do bạn dùng một số loại thuốc nào đó làm ảnh hưởng đến khả nǎng nhận diện kháng thể nên không xét nghiệm được rõ ràng.

Liệu có được bí mật không?

Có. Khi gặp gỡ, bác sĩ xét nghiệm sẽ hỏi tên, và có thể cả địa chỉ của bạn, nhưng tên, địa chỉ cũng như kết quả xét nghiệm sẽ được giữ bí mật. Song, nếu bạn cảm thấy không thoải mái thì có thể yêu cầu không để lại địa chỉ.

Hiện nay trung tâm dịch tễ, nhiều bệnh viện và trung tâm y tế ở các thành phố có xét nghiệm HIV. Các trung tâm y tế tỉnh cũng có dịch vụ này. Bạn có thể đến đó xét nghiệm. Nếu ngại, bạn có thể gọi điện thoại hỏi trước đến cần gặp ai, tên là gì, để khi đến bạn chỉ cần hỏi tên thôi, không phải nói: ''Cho tôi xét nghiệm HIV" .

Bạn hãy gọi điện cho 1080 hỏi địa chỉ và số điện thoại của các trung tâm y tế quận, tỉnh, nơi thường có dịch vụ xét nghiệm và tư vấn HIV.

Chi phí xét nghiệm:

Không có một mức thống nhất. ở một số điểm có thể xét nghiệm miễn phí. Một số điểm khác có mức phí khoảng từ 30.000 đồng đến 40.000 đồng.

Phải làm gì khi có kết quả xét nghiệm?

Nếu đã quá thời gian ''cửa sổ" mà bạn xét nghiệm có kết quả âm tính thì quả rất là mừng. Nhưng hãy cẩn thận. Đừng nghĩ là mình chưa bị thì sẽ không thể nào bị nhé. Bạn may mắn lắm đấy. Nhưng người ta thường bảo: "Đi đêm lắm có ngày gặp ma" mà. Bạn đừng lặp lại những việc nguy hiểm nữa.

Nếu kết quả là không rõ thì bác sĩ sẽ hướng dẫn bạn đến xét nghiệm lại.

Hiện Trạng Bệnh HIV/AIDS

Hội nghị lần thứ 4 về HIV/AIDS do Hội Quốc tế AIDS (IAS) đã diễn ra tại thành phố Sydney, Australia, từ ngày 22 – 25 tháng 7 năm 2007. Hội nghị quy tụ hơn 5000 đại biểu gồm các khoa học gia, các chuyên viên thượng thặng về HIV/AIDS đến từ 133 quốc gia. Các nhà chuyên môn đã trình bầy kết quả nhiều nghiên cứu mới nhất về sinh bệnh học, điều trị và phòng ngừa HIV đồng thời cũng tìm cách áp dụng một cách thực tế các kết quả đó, đặc biệt là tại các quốc gia trên đường phát triển, nơi mà dịch bệnh đang hoành hành trầm trọng.

Thực vậy, tháng 12 năm 2006, Tổ chức Y tế Thế Giới và Chương trình phối hợp của Liên Hiệp Quốc về bệnh nhiễm HIV/AIDS đã công bố bản cập nhật cuối năm về tình trạng bệnh này. Báo cáo nêu ra nhiều thành công của y khoa học trong việc điều trị, chăm sóc cũng như phòng ngừa bệnh. Nhờ có dược liệu công hiệu, bệnh nhân có thể kéo dài cuộc sống tương đối khả quan hơn và lâu hơn.

Nhưng bệnh vẫn còn là vấn đề nan giải vì tại một số quốc gia, bệnh có chiều hướng gia tăng. Hơn nữa, hiện nay vẫn chưa có thuốc chủng ngừa với những con virus nguy hại này, mặc dù HIV/AIDS đã được biết tới từ 25 năm nay.

Vài hàng lịch sử

Mặc dù chỉ mới xuất hiện cách đây hơn 25 năm, nhưng nhiễm HIV/AIDS đã trở nên một dịch bệnh có tính cách quốc tế.

Ngày 5 tháng 6 năm 1981, ca đầu tiên về bệnh suy miễn dịch bất bình thường có thể gây tử vong được phát hiện ở một người nam đồng tính luyến ái và người nghiện dùng chung kim chích tại California, Hoa Kỳ.

Năm 1982, danh từ AIDS (Acquired Immune Deficiency Syndrome) được đặt tên cho bệnh suy miễn dịch này. Trước đó bệnh có tên là GRID (Gay Related Immune Deficiency).

Năm 1983, siêu vi gây bệnh HIV (Human Immunodeficiency Virus) được tìm ra.

Cũng trong thời gian này, dịch bệnh HIV/AIDS ở người hoạt động tình dục dị tính xuất hiện ở châu Phi.

1985: Thử nghiệm đầu tiên để tìm kháng thể HIV được áp dụng.

Tài tử Rock Hudson tiết lộ đang bị AIDS.

1986: Có hơn 38.000 trường hợp AIDS trên 85 quốc gia trên thế giới.

Hệ thống toàn cầu người nhiễm HIV/AIDS được thành lập .

1987:Tổ Chức Y tế Thế giới phát động Chương Trình Toàn cầu Chống nhiễm HIV/AIDS.

1988: Thuốc trị bệnh AIDS đầu tiên zidovudine(AZT) được dùng ở Hoa Kỳ.

1990: Trên toàn thế giới có khoảng 8 triệu người sống với HIV.

1994: Các nhà khoa học khai triển phác đồ trị liệu để giảm lây lan HIV từ mẹ sang con.

1996: Thuốc trị bệnh HIV/AIDS rất công hiệu (Active Antiretroviral Treatment) được sản xuất và được sử dụng tại một số quốc gia đang phát triển.

1997: Có khoảng 30 triệu người sống với HIV trên thế giới.

Brazil là quốc gia đang phát triển đầu tiên trên thế giới cung cấp thuốc trị HIV/AIDS miễn phí cho bệnh nhân qua hệ thống y tế quốc gia.

2001: Nguyên thủ các quốc gia đặt kế hoạch lâu dài để đối phó với HIV/AIDS.

2003: WHO và UNAIDS đặt kế hoạch phát thuốc chữa HIV cho 3 triệu người khó khăn kinh tế trên thế giới từ năm 2003 tới năm 2005.

2004: Hoa kỳ khởi sự chương trình PEPFAR để chống bệnh AIDS trên thế giới.

Hiện trạng

Hiện nay, trên toàn thế giới có khoảng 38.6 triệu người sống với HIV/AIDS, riêng khu vực Cận Sahara ở châu Phi có 25 triệu.

Trong năm 2006 có 4.3 triệu bệnh nhân mới và khoảng 2.9 triệu trường hợp tử vong mà gần ¾ ở châu Phi. Kể từ khi ca bệnh đầu tiên được xác định vào năm 1981, số tử vong vì bệnh lên tới trên 25 triệu người. Theo WHO, nếu không có biện pháp ngăn chặn, số tử vong vì AIDS vào năm 2010 sẽ là 45 triệu và tăng gấp đôi vào năm 2020.

Tại châu Phi, có 12 triệu trẻ em mồ côi vì cha mẹ thiệt mạng do bệnh AIDS.

Tới cuối năm 2006, trên toàn thế giới, có 17.7 triệu phụ nữ và 2,3 triệu trẻ em dưới 15 tuổi nhiễm HIV. Ở các quốc gia đang phát triển, nghèo khó, có khoảng 6.8 triệu người cần thuốc trị bệnh thì chỉ 1.5 triệu người nhận được thuốc.

Tại Việt Nam, số người sống với HIV tăng đáng ngại và bệnh xuất hiện ở hầu hết 64 tỉnh, thành phố. Bệnh không chỉ giới hạn ở một số đối tượng như người mãi dâm, nghiện chích thuốc mà đã thấy ở dân chúng.

Từ năm 2000 tới năm 2005, số người nhiễm HIV tăng gấp đôi. Cho đến ngày 31 tháng 5 năm 2007, cả nước có khoảng 126.543 người nhiễm HIV, tổng số chuyển sang AIDS là 24.788, tổng số tử vong vì AIDS là 13.874.

Theo ước lượng, số bệnh nhiễm sẽ lên tới 350.000 vào năm 2010.

Hai nguyên nhân chính đưa tới nhiễm HIV ở Việt nam là tiêm chích ma túy và quan hệ tình dục không an toàn (mãi dâm,mua dâm, giao hợp nam/nam…), đặc biệt kể từ khi mở rộng kinh tế thị trường và giao thông biên giới mà không có biện pháp kiểm soát các tiêu cực kèm theo.

Việt Nam có khoảng hơn 20.000 bệnh nhân cần thuốc, nhưng mới có 7.000 người nhận được thuốc đặc trị. Số bệnh nhân cần thuốc sẽ tăng lên 57.000 vào năm 2008 và 73.000 vào năm 2010.

Ngân sách quốc gia dành cho việc phòng chống HIV năm 2006 là 82 tỷ đồng, trong đó khoảng 8 tỷ đồng để mua thuốc điều trị, đủ cho 1000 bệnh nhân. Thuốc điều trị HIV rất đắt: mỗi năm chi phí cho thuốc bậc 1 khoảng 500 US đồng, bậc 2 hơn 2000 US đồng, bậc 3 lại cao hơn nữa. Do đó nguồn thuốc chính ở Việt nam là do các tổ chức quốc tế tài trợ cho các tỉnh có nhiễm HIV cao. Tỉnh nhiễm vừa phải do ngân sách quốc gia đài thọ (theo Cục Phòng Chống HIV/AIDS Việt Nam) .

Theo báo cáo tại Hội nghị Phòng chống HIV tại Atlanta, Georgia ngày 12-15, 2005, cho tới cuối năm 2003, Hoa Kỳ có từ 925.000- 1.025.000 người sống với HIV/AIDS. Trong số này, 366.000 người được xác định và sống với HIV; 395.000 người sống với AIDS và 164.000-264.000 người không biết mình sống với HIV. Mỗi năm có 42.000 trường hợp nhiễm HIV mới. Tử vong vì AIDS từ khi bắt đầu dịch bệnh là trên 300.000. Năm 2005, 74% trường hợp HIV/AIDS được xác định là nam và 26% là nữ.

Nhiễm HIV/AIDS ở nam giới: 67% do giao hợp nam/nam; 15% giao hợp dị tính; 13% do dùng cần sa ma túy. Nhiễm HIV/AIDS ở nữ giới: 80% do giao hợp không an toàn, 19% do dùng cần sa ma túy. Các tiểu bang có nhiều HIV/AIDS là California, Illinois, Maryland, Pennsylvania.

Năm 2007, ngân sách liên bang dành cho các chương trình HIV/AIDS là 22.8 tỷ mỹ kim, chia ra 18.9 tỷ mỹ kim cho điều trị chăm sóc, trợ cấp tài chánh- nhà ở, phòng chống, nghiên cứu tại nội địa Hoa Kỳ và 3.9 tỷ mỹ kim hỗ trợ cho các quốc gia khác trên thế giới.

Hầu như mọi người bệnh tại Hoa Kỳ đều được điều trị với thuốc đặc trị ARV do chương trình bảo trợ y tế liên bang hoặc tiểu bang, bảo hiểm tư nhân đài thọ…nên họ có thể sống lâu hơn và đời sống của họ tương đối cũng được bảo đảm. Tuy vậy hàng năm cũng có cả ngàn người không nhận được thuốc vì không hội đủ các tiêu chuẩn được trợ cấp. Trung bình, chi phí thuốc đặc trị cho mỗi bệnh nhân/ năm là 12.000 mỹ kim.

Một điều đáng lưu ý là, ngay tại Hoa Kỳ với phương tiện truyền thông rộng lớn, giáo dục bệnh tật rất phổ biến mà có tới ¼ những người sống với HIV không biết là họ đang bị nhiễm. Họ sẽ không tìm kiếm điều trị chăm sóc cho tới khi bệnh trầm trọng, khó chữa và họ cũng không áp dụng các phương pháp phòng chống lây lan bệnh cho người khác. Do đó, gần đây chính quyền khuyến khích mọi người thử nghiệm HIV để tìm ra người đang bị nhiễm và giúp họ đừng truyền bệnh cho người khác.

Những yếu tố gây khó khăn cho phòng chống điều trị HIV/AIDS

Năm 1996, Liên Hiệp Quốc coi HIV/AIDS không chỉ là chuyện sức khỏe riêng rẽ nhưng là một vấn đề quan trọng cho nhân loại mà thế giới phải đương đầu, giải quyết. Họ cam kết sẽ cùng nhau tận lực để loại bỏ dịch bệnh này vào năm 2015.

Tại hội nghị quốc tế về bệnh AIDS ở thành phố Sydney, Australia, trong tuần lễ vừa qua, các nhà hữu trách có nhiều kinh nghiệm đã tỏ vẻ bi quan về cuộc chiến chống lại bệnh này.

Thực vậy, mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng các biện pháp đối phó với bệnh cho tới nay vẫn chưa đủ. Chỉ trong vòng 25 năm, bệnh đã lan truyền từ một số điểm nóng tại vài quốc gia tới hầu như mọi nơi trên thế giới với 65 triệu người bị bệnh và đã gây tử vong cho 25 triệu sinh mạng. Bệnh đã gây rất nhiều trở ngại cho nhiều quốc gia trong việc giảm thiểu nghèo đói, nâng cao giáo dục, thúc đầy bình đẳng nam nữ, giảm tử vong ở trẻ em và chấn chỉnh sức khỏe các bà mẹ.

Việc phòng tránh và điều trị HIV/AIDS gặp nhiều khó khăn trở ngại. Sau đây là một số yếu tố chính:

1-Thái độ kỳ thị, đối xử khác biệt với người nhiễm HIV/AIDS

Ngay từ khi được phát hiện, đã nẩy sinh ra một sự kỳ thị, phân biệt đối xử với người bị nhiễm HIV. Kỳ thị là có thái độ tiêu cực đối với một cá nhân hoặc nhóm người vì bản chất hoặc những đặc điểm của họ. Chẳng hạn kỳ thị nam nữ vì khác giống với mình, kỳ thị tuổi tác vì già trẻ hơn mình, kỳ thị người khác màu da, không cùng nghề nghiệp.

Kỳ thị với người bệnh HIV/AIDS có thể là xa lánh, hắt hủi và coi họ là:

- Là những thành phần xấu trong xã hội.

- Là người đã có những hành vi không bình thường.

- Bệnh của họ là hậu qủa của không đạo đức, trách nhiệm.

- Họ đã gây ra tiếng xấu cho gia đình, lối xóm.

- Bệnh của họ nguy hiểm, dễ lây nếu tiếp xúc, tới gần .

Họ bị cô lập, loại trừ ra khỏi các sinh hoạt chung và giới hạn tiếp nhận các dịch vụ cần thiết cho đời sống, không được giúp đỡ trong công việc, không được phục vụ tại các nhà hàng tiệm ăn. Tại trường học, con cái của họ bị cho ngồi riêng, đôi khi bị từ chối...

Thường thường kỳ thị bắt nguồn từ sự không hiểu biết về nguyên nhân, cách lây lan và diễn tiến của bệnh. Nhiều khi cũng có kỳ thị với nhóm người mang bệnh nhiều hơn như giới bán dâm, dân nghiện ngập, người có khuynh hướng tình dục khác thường.

Nhiều khi chính người bệnh cũng có thái độ tiêu cực về mình. Họ tự cảm thấy xấu hổ, đáng trách về hành động của mình, sợ bị coi thường miệt thị rồi tách xa xã hội, không tìm kiếm giúp đỡ trị liệu, không tìm hiểu về bệnh, đôi khi lại xa lánh người đồng cảnh ngộ.

Nghiên cứu cho hay, tại nhiều quốc gia châu Phi, phụ nữ bị kỳ thị hơn nam giới. Họ bị người chồng truyền bệnh cho rồi còn bị chế diễu, quấy rối, đe dọa hành hung, không cho hưởng tiện nghi điều trị, đôi khi bị đuổi ra khỏi nhà.

Kỳ thị đưa tới các hậu quả tai hại như :

- Bệnh trở nên khó kiểm soát vì người bệnh không dám thảo luận về các phương thức phòng tránh bệnh.

- Người bệnh không dám ra mặt chữa trị, phải loay hoay tự lo tự liệu, sống trong thiếu thốn, buông xuôi, chờ chết.

- Người nghi bị bệnh không đi thử nghiệm vì sợ bộc lộ dương tính, mất việc làm, bị xa lánh.

- Tạo ra sự chia rẽ trong cộng đồng dân chúng.

Riêng tại Việt Nam, theo tài liệu của Ban Tư Tưởng Văn Hóa Trung Ương, có hai địa điểm mà người nhiễm HIV bị kỳ thị nặng nề nhất là gia đình và cơ sở y tế.

Sự phân biệt đối xử và thành kiến này cần được xóa bỏ bằng cách phổ biến rộng rãi các kiến thức cần biết về HIV/AIDS cho mọi tầng lớp dân chúng, khích lệ sự tham gia của người nhiễm HIV, lập ra các nhóm đồng bệnh để họ sinh hoạt giúp đỡ lẫn nhau, tăng cường nhân viên tư vấn, cung cấp dịch vụ chữa trị, thuốc men.

2-Vấn đề dược phẩm

Cho tới bây giờ, chưa có thuốc chữa dứt HIV/AIDS. Các thuốc đang dùng có khả năng trì hoãn giai đoạn nhiễm HIV sang giai đoạn bệnh AIDS bằng cách ngăn chặn sự sinh sản của virus. Người bệnh phải uống một hỗn hợp từ ba tới bốn loại thuốc mỗi ngày và uống suốt đời. Nhờ đó tuổi thọ của họ có thể kéo dài cả vài chục năm.

Tuy nhiên, vì giá thuốc quá cao nên đa số bệnh nhân tại các quốc gia đang phát triển không nhận được thuốc. Nơi đây, các cố gắng đều tập trung ở các dược phẩm giản dị để loại trừ các bệnh bội nhiễm và giảm sự đau đớn của bệnh nhân.

Một trở ngại nữa trong việc dùng thuốc là, bệnh nhân cần được thử nghiệm máu theo định kỳ để theo dõi kết quả điều trị. Thử nghiệm này rất tốn kém và cần nhân viên có chuyên môn cao. Ngoài ra, việc đào tạo nhân viên biết sử dụng thuốc để trị bệnh cũng cần thời gian với nhiều chi phí.

Cho tới tháng 12 năm 2006, có khoảng 7 triệu người nhiễm HIV tại các quốc gia có thu nhập kinh tế trung bình và thấp cần thuốc ARV để điều trị, vậy mà chỉ có hơn 2 triệu người nhận được thuốc.

Tại hội nghị Sydney, bác sĩ Pedro Cahn, Chủ tịch IAS, tuyên bố: “ Chưa tới 1/3 bệnh nhân HIV tại các quốc gia có lợi tức thấp được điều trị với thuốc công hiệu và số người tiếp nhận được các phương thức phòng ngừa hữu hiệu như bao cao su, kim sạch lại càng ít hơn”.

Cơ quan Y Tế Thế giới và nhiều tổ chức thiện nguyện khác đã kêu gọi các công ty dược phẩm giảm giá thuốc để giúp đỡ cho bệnh nhân tại các quốc gia nghèo khó này. Vì, như Federico Mayor, một giới chức của UNESCO, đã nói một cách cay đắng “Thực là đáng xấu hổ khi để cho bệnh nhân HIV tại các quốc gia nghèo khó chết vì họ không được hưởng các phương thức trị liệu hữu hiệu có sẵn cho dân chúng các quốc gia giầu có”.

3-Mãi dâm

Tại nhiều quốc gia, đặc biệt ở châu Phi và mấy quốc gia ở Đông Nam châu Á, lây nhiễm HIV/AIDS qua sinh hoạt tình dục không an toàn vẫn là con đường quan trọng.

Người mãi dâm có nhiều rủi ro mắc bệnh và lan truyền bệnh.

- Họ thường tiếp cận với nhiều khách và họ cũng như khách lại ít khi dùng bao cao su bảo vệ, do không có hoặc không hiểu rõ ích lợi của bao cao su. Nhiều khi khách không chịu dùng vì muốn có cảm giác thực.

- Họ không được pháp luật bảo vệ nên khi bị khách hãm hiếp, lạm dụng, không dám tìm sự bảo vệ của công lý.

- Họ thường bị kỳ thị, đối xử khác biệt, nên không dám tìm kiếm giúp đỡ y tế, do đó dễ dàng nhiễm và truyền bệnh cho người khác.

- Họ hay dùng thuốc cấm để giải tỏa khó khăn đời sống, nghề nghiệp hoặc bán dâm để lấy tiền mua thuốc. Dùng chung kim chích rất thường xảy ra và dễ dàng nhiễm, truyền HIV.

Theo WHO, để hoàn thành việc giảm thiểu rủi ro lây lan bệnh, cần phải chấm dứt kỳ thị trừng phạt người mãi dâm và phải khích lệ họ tham gia vào việc phòng ngừa lây lan và tự bảo vệ, chăm sóc. Họ vẫn còn quyền hạn công dân nhưng chỉ vì hoàn cảnh phải làm một nghề mà chính họ không muốn.

Chính phủ phải cung cấp cho họ và khách hàng các kiến thức về HIV/AIDS, cách thức phòng tránh; thuyết phục họ sử dụng các dịch vụ mà nhà nước cung cấp và tích cực tham gia việc giữ gìn sức khỏe như dùng bao cao su, khám bệnh theo định kỳ.

Ngoài ra, cũng cần lưu ý tới nhiễm HIV ở người mua dâm. Tại nhiều quốc gia ở Á châu, số người này lên tới 15% dân chúng. Con số này tăng lên đến 44% nếu họ phải di động thường xuyên, như tài xế xe vận tải, công nhân các hầm mỏ hoặc làm việc trong rừng.

4-Nghiện chích thuốc

Dùng thuốc cấm dưới hình thức chích hoặc uống vẫn là rủi ro lớn để gây lây lan nhiễm HIV.

Theo ước đoán của Văn phòng Ma Túy và Tội Phạm Liên Hiệp Quốc (UNOCD), năm 2004 có 200 triệu người dùng cần sa ma túy trên thế giới, 13.2 triệu người dùng kim chích thuốc và khoảng 1/10 người nhiễm HIV là do dùng chung kim chích không an toàn. Đa số những người này sống ở Đông Nam châu Á. Dùng chung kim chích là con đường rất hữu hiệu và trực tiếp truyền các bệnh nhiễm virus máu như HIV, viêm gan.

Uống hoặc hít cần sa, ma túy cũng dễ bị nhiễm HIV vì thuốc tăng dục tính người dùng, thúc đẩy họ có quan hệ tình dục không bảo vệ.

Đã có nhiều đề nghị để giảm thiểu nhiễm HIV ở người nghiện dùng chung kim chích như:

- Giảm lưu hành số lượng thuốc cấm.

- Giảm số người dùng thuốc cấm bằng giáo dục học đường, phổ biến kiến thức về ảnh hưởng xấu của nghiện thuốc.

- Giảm các nguy cơ nhiễm HIV khi dùng thuốc như phát hoặc đánh đổi ống chích sạch, chữa trị người nghiện, cổ võ dùng bao cao su, phổ biến thông tin về liên hệ giữa chích thuốc với HIV…

Ngoài ra, việc điều trị HIV ở lớp người này có một số trở ngại như một số lớn không nhận được thuốc đặc trị, một số khác có tương tác giữa thuốc trị HIV và thuốc cấm.

5-Chưa có vaccine với HIV

Các khoa học gia đã cố gắng rất nhiều, nhưng cho tới nay vẫn chưa có vaccine đối với HIV. Lý do là có nhiều loại HIV khác nhau, lan truyền khác nhau và chúng luôn luôn thay hình đổi dạng, dấu mình trong tế bào mà hệ miễn dịch không đụng tới được. Chúng mau chóng hủy hoại hệ thống miễn dịch và chưa có bệnh nhân nào được chữa khỏi để biết nguyên lý của bệnh.

Trên đây là một số trở ngại chính trong việc phòng chống HIV/AIDS. Người viết mong các vị thức giả khai triển thêm.

Kết luận

Tại hội nghị Sydney, nhiều ý kiến trình bầy khiến cho mọi người phải e ngại, quan tâm về tình trạng chữa trị và phòng ngừa HIV/AIDS.

Tiến sĩ Anthony Fauci, Cố vấn của Tổng Thống Hoa Kỳ George W. Bush về HIV, cho hay là đã có nhiều tiến bộ nhưng cứ mỗi bệnh nhân HIV nhận được trị liệu thì có sáu bệnh nhân mới được phát hiện.

Bác sĩ Brian Gazzard, Chủ tịch Hiệp Hội HIV Anh quốc, tuyên bố “Hiện nay, dịch HIV không kiểm soát được ở châu Phi, hoàn toàn không kiểm soát được ở châu Á”.

Theo bác sĩ Pedro Cahn, chủ trì hội nghị: “Các dữ kiện khoa học trình bầy tại hội nghị không chỉ là những tiến bộ mới rất quan trọng về điều trị và phòng ngừa, mà còn về làm sao hỗ trợ các quốc gia đang mở mang để họ có thể áp dụng các tiến bộ đó đối với những người đang cần và đang mang rủi ro bị bệnh. Chúng ta đang đối phó với một căn bệnh có thể phòng ngừa được, vậy mà mỗi ngày vẫn có trên 10.000 người nhiễm bệnh. Chúng ta đang đối phó với căn bệnh có thể điều trị được, vậy mà mỗi năm có trên 3 triệu người chết. Chúng ta đã không áp dụng được các kết quả này vào thực tế và đây là điều đáng hổ thẹn”.

Thực vậy, sự gia tăng dịch AIDS không phải là do thiếu các kế hoạch phòng chống, mà là do không sử dụng/áp dụng được những phương tiện sẵn có để làm chậm sự lan tràn của HIV. Cả 25 năm sau khi dịch được phát hiện lần đầu tiên, đa số những người có nhiều rủi ro nhiễm HIV đã không biết cách phòng chống HIV. Lý do là tại nhiều quốc gia, nhà hữu trách đã không chịu áp dụng hoặc dân chúng không thực hiện những phương pháp được coi như hữu hiệu.

Hội nghị kết thúc với lời kêu gọi dồn nhiều nỗ lực vào việc cải thiện trị liệu ở trẻ em, vào những hứa hẹn và thách đố liên quan tới kế hoạch phòng chống sinh y học và các trở ngại gây ra do khả năng chuyển thể của siêu vi HIV.

Giáo sư David Cooper, đồng chủ tọa hội nghị tuyên bố: ”HIV là một trong nhiều thử thách khoa học lớn nhất và phức tạp nhất trong thời đại của chúng ta. Đối phó với thử thách này đòi hỏi một quyết tâm chính trị lâu dài và sự gia tăng nguồn tài nguyên cho các công trình nghiên cứu về HIV”.

Hội nghị đã ra một tuyên ngôn kêu gọi dành 10% tổng số các nguồn tài trợ cho HIV được dùng trong việc nghiên cứu. Trong ngày bế mạc, trên 1.550 khoa học gia, giới chức y tế, lãnh tụ cộng đồng đã đồng ý ký bản tuyên ngôn này.

“Chúng ta phải cố gắng hơn nữa để bảo vệ tương lai của chúng ta, tìm phương thức hữu hiệu hơn để chữa trị cho những người trẻ nhất trong số chúng ta và theo đuổi các kế hoạch phòng chống dựa trên sự thay đổi hành vi và phương tiện y sinh học như chất tiêu diệt virus, phòng ngừa tiền tiếp cận”, Bác sĩ Pedro Cahn, chủ tọa hội nghị kết luận.

Hy vọng là tiến bộ của y khoa học và quyết tâm của mọi người sẽ khống chế được HIV trong tương lai thật gần.

Hội nghị 5 về HIV/AIDS sẽ họp tại Cape Town, quốc gia Nam Phi, vào năm 2009.

Bệnh truyền nhiễm : AIDS / SIDA - BS Nguyễn văn Đích , Kiều bào Mỹ

Bệnh liệt kháng mà ta quen gọi là AIDS ( viết tắt theo tiếng Anh ) hay SIDA ( viết tắt theo tiếng Pháp ) đã được mô tả năm 1981 ở một số người nam giao hợp với nam ở San Francisco. Đến nay bệnh đã lan tràn khắp thế giới có thể lây nhiễm cho mọi người, cả nam lẫn nữ thuộc mọi lứa tuổi, và đã làm cho 25 triệu người chết. Theo báo cáo của UNAIDS tháng 12 năm 2005, trên thế giới có 40,3 triệu người nhiễm siêu vi liệt kháng (HIV), trong năm 2005 đã có thêm 4,2 triệu người mới nhiễm, trong số đó có 700.000 trẻ em dưới 15 tuổi. Cũng trong năm 2005 đã có 3.1 triệu người chết vì liệt kháng trong số đó có 570.000 trẻ em dưới 15 tuổi. Theo Tổ chức Y tế Thế giới tại Việt nam hiện có từ 110.000 đến 360.000 người nhiễm liệt kháng, số này tăng gấp đôi trong thời gian từ 2000 đến 2005. Xuất độ nhiễm HIV trong dân chúng từ 15 - 49 tuổi là 0.2 - 0.8% . Số người cần điều trị là 25.000 trong số đó chỉ có 3.000 - 3.500 người được điều trị. Số người chết vì liệt kháng là 9.000 năm 2003 ước tính là 14.000 năm 2005. Nhiễm siêu vi liệt kháng ở Việt nam phần lớn tập trung ở những người chích ma túy và những người làm dịch vụ tình dục.

Dùng chung kim là nguyên nhân làm cho liệt kháng lan truyền trong số những người nghiện xì ke ma túy. Những người này thường có sinh họat tình dục không an toàn, nên lây bệnh cho các công nhân tình dục. Nguy cơ lây nhiễm tăng lên khi đã có sẵn một bệnh tình dục khác và ở tuổi vị thành niên. Những phụ nữ này truyền HIV cho khách hàng của họ. Những người này lại truyền HIV cho vợ hoặc bạn tình của mình. Khi những phụ nữ này có thai, lại truyền HIV cho thai nhi hay trẻ sơ sinh. Tỉ lệ nhiễm giữa nam và nữ ở Việt nam là 2/1. Theo kinh nghiệm ở các nước Phi châu, tỉ lệ nhiễm tăng dần ở phụ nữ kèm theo sự gia tăng số trẻ sơ sinh bị nhiễm là bằng chứng của bệnh dịch đang phát triển.

Nếu chúng ta không nỗ lực ngăn chặn bệnh dịch trong lúc này thì chắc chắn sẽ phải đương đầu với một số bệnh nhân vô cùng đông đảo trong tương lai không xa.

Khi lọt vào cơ thể siêu vi liệt kháng tấn công hệ thống miễn dịch tức là hệ thống phòng vệ của cơ thể. Chúng xâm nhập vào một lọai tế bào chuyên biệt có nhiệm vụ điều hòa các họat động của hệ miễn dịch gọi là tế bào CD4, HIV dùng tế bào CD4 để sinh sản rồi phá hủy các tế bào này. Mỗi ngày có hàng tỉ tế bào CD4 bị phá hủy và hàng tỉ siêu vi mới đựợc sinh ra để xâm nhập các tế bào CD4 khác. Sau nhiều năm hệ thống miễn dịch bị suy kiệt, không còn bảo vệ được cơ thể chống lại sự xâm nhập của vi trùng, siêu vi, ký sinh trùng, nấm và không cản trở được sự phát trịển của tế bào ung thư.

Triệu chứng tùy thuộc vào từng giai đọan tiến triển của bệnh. Khi mới bị nhiễm bệnh nhân có triệu chứng giống như cảm cúm gồm có ớn lạnh, nhức đầu, nổi hạnh và ngọai ban, giống như nhiều bệnh nhiễm siêu vi khác. Vì triệu chứng không đặc hiệu nên bệnh thường bị bỏ qua không được chẩn đóan. Người bị nhiễm HIV bề ngoài trông khỏe mạnh nhưng có thể lây bệnh cho người khác. Nếu được chẩn đoán sớm, có thể hạn chế được sự lây lan và một vài báo cáo cũng cho thấy rằng nếu điều trị sớm, có thể làm chậm sự tiến triển của bệnh. Bệnh tiến triển âm ỉ trong 9-10 năm hay lâu hơn. Trong thời gian này có sự chiến đấu âm thầm nhưng ác liệt giữa siêu vi liệt kháng và tế bào miễn dịch. Đến khi hệ thống miễn dịch bị suy kiệt, các vi sinh vật có sẵn trong môi trường nhân cơ hội, xâm nhập cơ thể người bệnh, gây ra các bệnh nhiễm trùng cơ hội. Bệnh nhân sẽ bị viêm phổi nhiều lần, lao, nhiễm siêu vi, nhiễm nấm, ký sinh trùng và có thể bị một số ung thư. Người bệnh suy kiệt dần và chết. Bệnh liệt kháng thường xảy ra ở người trẻ, tức là những người đang học hành và làm việc để đóng góp cho xã hội. Những lớp người này bị tiêu diệt tạo ra một lỗ hổng không bù đắp lại được trong lực lượng lao động. Đó là điều đã xảy ra ở Phi châu. Tại nhiều nước Phi châu không còn đủ người để làm ruộng, không còn đủ giáo viên dạy học, không còn đủ người chữa bệnh và hệ thống y tế vốn đã yếu kém lại bị tràn ngập bởi số bệnh nhân tăng cao. Guồng máy tổ chức chính quyền và xã hội bị sụp đổ. Bệnh dịch còn ở giai đọan khởi đầu và đang lan sang Á châu và Đông Âu. Ngày nay liệt kháng là một hiểm họa đe dọa mọi quốc gia, có thể so sánh với bệnh phong thời trung cổ và dịch cúm năm 1918.

Các nỗ lực nghiên cứu đã cho ta một số thuốc có thể làm chậm sự tiến triển của bệnh. Các thuốc này đều đắt, có nhiều tác dụng phụ và cần dùng kết hợp để tránh sự đề kháng. Có nhiều cố gắng để sản xuất các viên thuốc tổng hợp để bệnh nhân chỉ phải uống 1-2 viên thuốc mỗi ngày giúp cho dễ tuân thủ điều trị hơn. Mặt khác cũng có những vận động để các hãng bào chế nhường bản quyền cho phép các nước nghèo sản xuất thuốc trị liệt kháng rẻ tiền hơn giúp tăng số người được chữa bệnh.

Vì liệt kháng là một hiểm họa đe dọa sự tồn tại của cả nhân lọai nên mỗi người trong phạm vi của mình đều phải có trách nhiệm ngăn chặn.

Mỗi cá nhân cần phải:

Tìm hiểu về liệt kháng;

Tham gia vào những việc có ích lợi chung, nâng cao sự hiểu biết và phòng chống liệt kháng trong cộng đồng;

Sống lành mạnh, thực hành tình dục an tòan, ( dùng bao cao su…người bị bệnh tránh lây bệnh cho người khác….);

Không sợ lây thái quá: bệnh liệt kháng không lây qua tiếp xúc xã giao, qua làm việc chung, do sống trong gia đình do tiếp xúc giữa chủ nhân và khách hàng hay tại quán ăn. Máu, tinh trùng, dịch âm đạo, sữa mẹ gây nhiễm trong khi nước bọt, nước mắt, mồ hôi không gây nhiễm. Muỗi đốt không truyền bệnh.

Đề phòng bằng cách mang bao tay mỗi khi tiếp xúc với máu và dịch cơ thể các vết trầy sát, vết thương phải được rửa sạch và băng kín, không dùng chung đồ dùng cá nhân như dao cạo, bàn chải đánh răng, kim chich và đồ dùng bén nhọn phải được để riêng.

Trong phạm vi xã hội:

Giáo dục quần chúng để biết cách ngừa liệt kháng, nhất là những nhóm người có nguy cơ cao như nghiện thuốc đường tĩnh mạch, công nhân tình dục,

Xóa bỏ thành kiến cho họ là những tệ nạn xã hội, coi là tội phạm cần xa lánh hay phải trừng phạt, ngược lại cần hiểu biết về hòan cảnh và điều kiện khiến họ đã sinh họat như vậy và tạo điều kiện giúp họ thay đổi lối sống. Đã có đề nghị hợp thức hóa thương mại tình dục vì coi mãi dâm là bất hợp pháp chỉ đẩy một số phụ nữ ra ngoài lề xã hội khiến họ phải lẩn lút trốn tránh, ngược lại hợp thức hóa khiến dễ kiểm sóat, giáo dục và phòng ngừa bệnh tật hơn. Một số nơi đã áp dụng chương trình đổi ống và kim chích để giúp cho người nghiện thuốc không bỏ được hoặc chưa bỏ được không phải dùng chung kim do đó giảm sự lây nhiễm. Chương trình đổi kim chích kèm theo sự giáo dục về ngừa bệnh, xét nghiệm tìm HIV, viêm gan siêu vi B và C, chủng ngừa viêm gan A và B, hướng dẫn để cai nghiện. Các báo cáo cho thấy chương trình đổi kim chích có hiệu quả kinh tế cao. Nhiều hội chuyên môn kể cả hội Y tế Hoa kỳ (AMA) đã yêu cầu các nhà làm luật cho phép cung ấp ống và kim chích cho những người nghiện thuốc một cách hợp pháp.

Cơ quan Kiểm soát và Phòng Bệnh (CDC) khuyến cáo xét nghiệm tìm HIV rộng rãi trong khám sức khỏe định kỳ. Phương pháp xét nghiệm nhanh có lợi vì cho kết quả ngay, giúp sự hướng dẫn về điều trị và phòng ngừa và giúp đỡ.

(Những người đã được quy định cần thử HIV là những người có triệu chứng liệt kháng, bị bệnh tình dục, bi lao, phụ nữ có thai).

Truy tìm HIV sẽ có hiệu quả cao khi kèm theo sự giúp đỡ cùng thuốc điều trị cũng như bảo đảm tính bảo mật của y khoa, và tránh sự kỳ thị cho bệnh nhân.

Trên bình diện thế giới lãnh đạo các quốc gia đã hợp tác với Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Y tế Thế giới, Ngân hàng Thế giới, các tổ chức thiện nguyện để hướng dẫn, lập kế họach, huấn luyện và tài trợ cho các chương trình phòng ngừa và điều trị liệt kháng. Đây là một hành động đáng mừng, Cần sự hợp tác tích cực của mọi người, mọi quốc gia để ngăn chặn một bệnh dịch đang đe dọa nhân lọai.

Vaccin HIV: những triển vọng - Võ văn Lượng

Tính đến tháng 12/2006, theo số liệu do UNAIDS công bố có đến 39,5 triệu người đang sống với HIV, 4,3 triệu người mới nhiễm và 2, 9 triệu ngừời chết vì AIDS. Tổng số người chết vì AIDS từ 1982-2002 là 25 triệu người .

Hiện nay, các chương trình phòng chống HIV tại các nước phát triển và đang phát triển đã đạt đựơc một số thành công. Các phác đồ điều trị kháng retrovirus ( ARV ) được triển khai tại nhiều vùng trên thế giới đã mang lại các kết quả khích lệ là làm giảm được số mắc và số chết do nhiễm HIV. Liệu trình HAART (Highly active antiretroviral therapy = liệu trình điều trị chống retrovirus có tác dụng cao ) có khả năng làm giảm số lựơng virus trong máu và làm ổn định các triệu chứng, nhưng lại không thể chữa lành bệnh tức là thanh toán sạch virus trong cơ thể cũng như không diễn tiến sang giai đoạn AIDS có triệu chứng và mặt khác không ngăn chặn hoản toản đựơc các trường hợp HIV + lây truyền từ người này sang người khác. Thêm vào đó , mặc dù các phác đồ ARV đang giúp cho người nhiễm HIV cơ hội kéo dài cuộc sống , nhưng do chi phí điều trị ( anti-retroviral therapies =ART) vẫn còn cao cho nên liệu trình kết hợp nhiều thứ thuốc (HAART) chỉ mang lại tác động tích cực đối với các nước giàu chiếm có 10% số người đang sống chung với HIV trên toàn thế giới.

Thực hành các biện pháp tình dục an toàn tuy có làm giảm đựơc các tỉ số lây nhiễm nhưng cũng không đủ khả năng để ngăn chặn AIDS lan rộng tại những nước có số người nhiễm cao ; nhưng dù cho các chương trình này có triển khai rộng rãi đi nữa cũng không thể nào đạt đựơc mục tiêu mong muốn là giảm sự lây truyền HIV trong một thời gian dài và bền vững.

Do HIV vẫn còn tiếp tục lây lan rộng không hề giảm tốc độ tại nhiều nơi, hàng ngày trên thế giới có đến 14.000 ca nhiễm mới, cho nên để ngăn chặn tích cực sự lây truyền HIV đòi hỏi phải có vaccin HIV an toàn và hiệu quả càng sớm càng tốt, nhưng cho đến nay mục tiêu này chỉ là ước vọng. Viễn cảnh này khác xa với thái độ hăm hở đầy lạc quan của Margaret Hecker, Bộ trưởng bộ y tế và các dịch vụ con người của Mỹ dưới thời Ronald Reagan, sau khi các nhà khoa học xác định đựơc HIV là tác nhân gây ra AIDS đã vội vã tuyên bố trong vòng 2 năm sẽ có vaccin phòng chống HIV (1984).

Do đó, nếu trong thời gian tới, nếu chưa có 1 vaccin dự phòng hữu hiệu , thì HIV vẫn là hiểm họa cho hàng triệu người khắp thế giới.

I. Nhắc lại về sinh bệnh học nhiễm HIV

Các phân lập HIV gây nhiễm cho các tb ở người và dẫn đến bệnh AIDS nằm trong 1 quần thể các virus HIV rất đa dạng về mặt di truyền.

Khi 1 người bị nhiễm virus HIV, các họat động enzyme của virus không chính xác trong quá trình sao chép của virus sẽ liên tục tạo ra các virion đột biến. Tiến trình này cuối cùng tạo ra 1 quần thể các virion khác nhau về mặt di truyền, làm cho 1 kháng thể (KT ), nếu có, trung hoả đựơc 1 phân lập HIV này nhưng lại không trung hoả được phân lập khác ngay chính trên cùng 1 người bị nhiễm. Chính sự đa dạng di truyền đặc biệt này giữa các phân lập HIV đã làm cho việc phát triển vaccin trở nên cực kỳ phức tạp.

Căn cứ trên những khác biệt trong gien Env, người ta chia HIV-1 ra làm 3 nhóm M, N và O : Các nhóm này có thể khác nhau 30 - 40% trong trình tự các acid amin ( AA ) nằm ở gp120. Nhóm M lớn nhất và chia ra làm 8 phân typ do sự khác biệt trình tự AA trên gp120 ( 5-20% ) ; mỗi phân typ có phân vùng địa lý khác nhau. Khi các phân typ cùng gây nhiễm cho 1 cá thể hoặc 1 tb sẽ hình thành các thể tái tổ hợp lưu thông (circulating recombinant forms = CRFs).

Các phân lập (isolate) HIV thuộc các phân typ khác nhau lại còn có các trình tự di truyền cách biệt rất nhiều ( các khoảng cách di truyền giữa các phân typ xê dịch từ 10 - 30% ). làm cho các đặc tính kháng nguyên cũng khác nhau đến mức có ý kiến cho rằng cần có nhiều lọai vaccin cho mỗi vùng địa lý khác nhau. Rõ ràng là công việc sẽ rất khó khăn và phí phạm thời gian trước viễn cảnh phải phát triển cùng lúc nhiều lọai vaccin HIV cho từng vùng như thế.

Kết qủa nghiên cứu phân tích mức độ lưu hành của các phân typ HIV -1 toàn cầu năm 2001 cho thấy : phân typ C chiếm 47,2%, A 27%, B chiếm 12,3%, D chiếm 5,3%, E chiếm 3,2%, các phân typ còn lại ( F, G, H, J, N, T) và các CRF khác chiếm 5 % . Phân typ B chủ yếu tại Bắc Mỹ và châu Âu, A và D chủ yếu tại châu Phi, và C chủ yếu tại châu Phi và châu Á.

Ở đây có sự phân biệt về ưu tiên theo địa lý các nước giàu nghèo , bởi vì tuy phân typ C chiếm đến 47,2% nhưng có đến 95% các nghiên cứu HIV hiện nay đều tập trung vào phân typ B, và chỉ có một số ít phòng thí nghiệm nghiên cứu các phân typ khác.

Hình trên trình bày diễn biến đáp ứng miễn dịch sớm trên người nhiễm HIV. Giai đoạn sơ nhiễm bắt đầu với 1 đợt tăng vọt lượng virus trong máu từ ngày thứ 7, lên đến đỉnh cao nhất vào tuần thứ 3 sau khi phơi nhiễm. Tiếp đến, virus phát tán đến các cơ quan lymphoid, xâm nhập rồi phá hủy những mô này; sau đó hình thành ổ chứa virus tiềm tàng ( giai đoạn dễ tổn thương ).

II. Đặc điểm sinh bệnh học miễn dịch AIDS

1. Sự hình thành miễn dịch kháng HIV ở người

Đáp ứng của hệ thống miễn dịch khi bị nhiễm HIV bao gồm miễn dịch dịch thể qua các KT chống lại các kháng nguyên (KN) vỏ bọc và miễn dịch qua trung gian tế bào (chủ yếu qua CD8+T) trải qua 2 giai đọan sớm và muộn.

Khoảng 3-6 tuần sau khi bị nhiễm HIV, người ta có thể phát hiện được các đáp ứng miễn dịch chuyên biệt chống lại HIV làm giảm số lượng virus trong máu do chính các đáp ứng của tb CD8+ T. Sau đó, số lượng virus trong máu giảm dần đến điểm cân bằng và virus sẽ duy trì số lượng này trong một thời gian dài.

Miễn dịch do các KT trung hoả các chủng HIV thường xuất hiện từ 6-12 tuần sau sơ nhiễm tức là chậm hơn, đi sau các đáp ứng của tb CD8+T, khi lượng HIV trong máu tụt xuống gần điểm cân bằng. Đặc điểm của các KT trung hoả là lúc đầu có hiệu giá thấp mà phần lớn các cá thể bị nhiễm đều có, và các KT này cũng chỉ có khả năng trung hoả một số phân lập HIV mà thôi. Ngay cả sau khi nhiễm HIV nhiều năm, do quá trình sao chép của virus tạo ra nhiều phân lập khác nhau trên cùng 1 người nhiễm, cho nên các đáp ứng trung hoả này cũng yếu đối với các phân lập HIV.

Các đáp ứng miễn dịch chống virus trong giai đoạn này thường cho kết quả là làm giảm nhanh số lượng virus—máu và lượng KN trong máu, làm giảm tải virus. Trên lâm sàng lúc này các triệu chứng sơ nhiễm lui đi, và trong máu số lượng CD4+T lúc đầu có giảm nhưng sau đó “ chựng “ lại trong một thời gian trong giai đọan không có triệu chứng, sau đó giảm dần đến mức rất thấp và có thể không phát hiện đựơc trong giai đoạn AIDS.

Khi đã đạt đến điểm cân bằng, tb CD8+ tiếp tục áp chế virus, còn đáp ứng của các KT trung hoả tức là KT chống lại gp 120 duy trì ở mức độ cao nhưng lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong đó có những thay đổi trong trình tự của các protein cấu trúc của vỏ bọc của virus. Do cơ chế sao chép của virus cực kỳ nhanh, tạo nên những các biến thể HIV-1, gien Env biến đổi dẫn đến hậu quả là các protein cấu trúc như gp120, gp41 cũng thay đổi, khiến cho các KT trung hoả không nhận diện được các epitope ( nhóm quyết định kháng nguyên ) của virus làm cho hiệu qủa của đáp ứng KT sau đó sẽ giảm đi. Cho nên về lâu dài, đáp ứng miễn dịch kháng HIV chủ yếu nằm ở nhánh miễn dịch qua trung gian tb.

Một đặc điểm của HIV là ngay từ lúc bắt đầu của giai đọan sơ nhiễm đã hình thành 1 ổ chứa các tb T CD4+ ngủ yên ( resting ), bị nhiễm virus tiềm tàng tức là khi 1 cá thể nhiễm HIV, tình trạng nhiễm trùng này kéo dài suốt đời, bệnh cứ diễn tiến không hề ngưng nghỉ, vào bất cứ thời điểm nào cũng có 1 số lượng tb lymphô bị virus tấn công tức là cơ thể người nhiễm không bao giờ tiêu diệt hết được virus. Hơn thế nữa, ngay cả khi b/n được điều trị bằng ARV số lượng virus-máu giảm đến mức không phát hiện được ( <50copies/mL ) nhưng không thể thanh toán đựơc các ổ chứa HIV. Nói cách khác, sẽ vĩnh viễn không còn cơ hội để thanh toán HIV và ngăn không cho virus gây tình trạng nhiễm trùng lâu dài một khi thành hình ổ dự trữ các tb bị nhiễm virus tiềm tàng ( latently infected cells ). Đây là điểm khác biệt quan trọng giữa HIV với tất cả các trường hợp nhiễm virus khác vốn không dẫn tới sự hình thành ổ chứa virus vĩnh viễn sau những đợt sao chép đầu tiên. Vì lý do đó , HIV đặt ra nhiều thách thức thách thức lớn hơn so với các khuôn mẫu tiêm chủng cổ điển, tức là khi ngăn được tình trạng nhiễm trùng trên lâm sàng chắc chắn sẽ dẫn tới việc tiêu diệt virus dù cho virus đã hoàn thành một số đợt sao chép đầu tiên.

2. Miễn dịch do tb T trong nhiễm HIV

Nhờ hiểu biết rõ hơn về sinh bệnh học của nhiễm HIV và các đáp ứng miễn dịch tham gia kiểm soát sự sao chép HIV khiến cho vai trò của miễn dịch qua tb T được chú ý nhiều hơn.

Sau khi nhiễm HIV từ 2 -6 tháng, nồng độ virus tăng vọt lên, rồi sau đó giảm dần cho đến điểm cân bằng ( setpoint ) tức là ở điểm này nồng độ không thấp hơn nồng độ ổn định trong giai đọan không có triệu chứng lâm sàng. Người ta cho rằng chính các đáp ứng của tb CD8+ T đã làm giảm số lựơng HIV trong máu trong giai đoạn này. Các tb này tấn công và giết đi các tb bị nhiễm CD4+T là nơi sản xuất ra virus. Tb CD8+ T cũng tiết ra một số yếu tố hoả tan như RANTES, MIP-1 alpha, MIP-1beta và MDC có tác dụng ngăn chặn sự sao chép HIV bằng cách chiếm giữ các đồng thụ thể là những điểm tiếp cận mà các chủng HIV phải gắn vào rồi sau đó mới chui vào bên trong tb được.

Các tb T CD8+ độc tb ( CD8+ cytotoxic T lymphocytes = CTL ) nhận mặt các peptide của virus gắn vào các phân tử phức hợp phù hợp mô chính ( major-histocompatibility-complex = MHC) nằm trên bề mặt của tb bị nhiễm virus. Có nhiều nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của các đáp ứng miễn dịch qua trung gian tb T trong việc ngăn chặn tình trạng nhiễm virus ngay từ đầu và về sau của HIV ở người và SIV trên các loải linh trưởng ( trừ con người ). In vitro, CTL có thể giết chết hay áp chế các tb bị nhiễm HIV, cho nên sự xuất hiện những tb lymphô này cho biết là virus trong máu đang bị ngăn chặn.

Trên mô hình khỉ bị làm kiệt các tb CTL ( CD8+T) này sau đó đựơc gây nhiễm bằng HIV, virus sẽ không bao giờ bị khống chế, và bệnh diễn tiến nhanh hơn.

Tuy nhiên, các tb bị nhiễm tiềm tàng ( resting cells) lại thoát đựơc sự giám sát của CTL . Khi những tế bào tiềm tàng này đựơc họat hoá, chúng sẽ tạo ra các virion gây nhiễm cho tb mới trước khi những tb đầu tiên chết đi hoặc bị lọai trừ. Như vậy, CTL kiểm soát tình trạng nhiễm trùng nhưng không thanh toán được hoản toản các ổ chứa HIV.

Do hoạt tính CD8+ lymphocytes phụ thuộc một phần vào sự giúp đỡ ( như cytokines, yếu tố tăng trửơng … ) của CD4+ lymphocytes, cho nên sự giảm sút số lựơng ( và kèm theo chất lượng ) của tb CD4+ T lymphocytes sẽ làm suy giảm họat tính của CD8+lymphocytes. Chính vì thế, không có gì ngạc nhiên khi thấy rằng việc ức chế HIV và bảo đảm cho tình trạng lâm sàng ổn định có liên quan chặt chẽ với số lượng tb CD4+ T lymphocyte chuyên biệt cho virus. Do đó , để có một vaccin HIV hữu hiệu, ngoài tb CD8+ CTLs ra, phải kích thích được sự giúp đỡ của CD4+ T lymphocyte chuyên biệt cho virus.

III.Cách tiếp cận miễn dịch trong nội dung phòng chống HIV

1.Các yêu cầu lý tuởng của 1 vaccin dự phòng HIV

Nhiều khía cạnh trong sinh học nhiễm HIV ảnh huởng rất lớn đến sự phát triển vaccin HIV . Do HIV được lây truyền qua quan hệ tình dục và theo đường máu cho nên để cho 1 vaccin HIV có hiệu quả, vaccin này phải gây đựơc vừa miễn dịch màng niêm, ngăn chặn được virus lây truyền qua đường tình dục, và miễn dịch toản thân, tức là ngăn chặn được virus lây truyền trực tiếp vào đường máu. Mặt khác, HIV vừa có khả năng lây truyền khi nằm trong tb và ở dưới dạng tự do cho nên 1 vaccin được coi là hữu hiệu, phải gây được nhiều lọai miễn dịch. Các virion ngoài tb có thể đựơc các KT gắn kết và trung hoà sau đó, còn các virus nằm bên trong tb có thể bị tiêu diệt bằng các đáp ứng miễn dịch qua trung gian tb.

Cuối cùng, còn 1 vấn đề gây trở ngại nhiều nhất khi phát triển 1 vaccin HIV hữu hiệu, đó là khi 1 người bị nhiễm HIV , virus này bao giờ cũng sao chép rất mạnh ngay cả khi cơ thể đáp ứng mạnh bằng miễn dịch qua trung gian tb và sản xuất nhiều kháng thể. Trong phần lớn các trường hợp trên mô hình khỉ, sự sao chép của virus gây nhiễm sẽ bị kiểm soát và cuối cùng sẽ ngưng lại khi đáp ứng miễn dịch của cơ thể có hiệu lực, tức là khỉ nhiễm SIV và không chuyển thành AIDS như ở người ; nhưng đối với HIV, cơ thể con người không bao giờ ngăn chặn được sự sao chép. Hơn thế nữa, khả năng sao chép của virus có liên quan hết sức chặt chẽ với tính sinh bệnh của nó, tức là khi virus duy trì mức độ sao chép cao sẽ làm cho diễn tiến lâm sàng nhanh hơn. Chính khả năng cứ tiếp tục sao chép của virus mặc dù cơ thể có đáp ứng miễn dịch cao đã làm cho nhiều người lo ngại rằng khó có khả năng phát triển vaccin HIV tạo được đáp ứng miễn dịch có khả năng loại bỏ hoàn toàn hoặc ngăn chặn không cho HIV sao chép vĩnh viễn.

Vì vậy , 1 vaccin dự phòng AIDS lý tưởng phải có được các đặc trưng sau :

- Ngăn ngừa được sự lây truyền qua niêm mạc và đường máu ( qua da, qua tiêm chích ).

- Có tính an toàn cao,với nguy cơ gây các phản ứng có hại ít nhất khi triển khai rộng rãi.

- Chỉ cần thực hiện một liều vaccin ( dạng tiêm hay uống ).

- Có hiệu lực bảo vệ lâu dài nhiều năm sau khi tiêm chủng.

- Giá thành thấp để có thể triển khai rộng rãi tại các nước đang phát triển.

- Vaccin phải có tính ổn định cao, dễ sử dụng rộng rãi cho nhiều người tại các nước đang phát triển có cơ sở hạ tầng yếu kém.

- Có khả năng bảo vệ đối với nhiều phân lập virus khác nhau, tránh tình huống phải có 1 lọai vaccin cho mỗi phân lập virus.

2. Các mục tiêu thực tiễn

Những yêu cầu trên chỉ có tính cách lý tưởng. Qui mô dịch HIV/AIDS hiện nay buộc các nhà nghiên cứu phải đánh giá lại các mục tiêu trên trong quá trình phát trịển vaccin dự phòng HIV. Thực tế cho thấy rằng, thậm chí 1 vaccin chống HIV chỉ cần đạt đựơc một phần trong các nội dung trên cũng gây đựơc một tác động có ý nghĩa đối với sự lây truyền HIV và diễn tiến của bệnh AIDS. Căn cứ theo nhu cầu thực tế, 1 vaccin HIV cần đạt đựơc những mục tiêu thực tiển như sau :

Có khả năng ngăn chặn được sự lây truyền

Một mục tiêu khác của vaccin HIV là nhằm ngừa bệnh thay vì ngừa nhiễm. Theo lý thuyết, để cho tình trạng nhiễm HIV không chuyển thành AIDS, thì vaccin hữu hiệu phải đạt được các mục tiêu :

- Bảo vệ hoản toàn không bị nhiễm virus (tình trạng miễn dịch vô trùng =sterile immunity) .

- Thanh toán sạch virus và các tb bị nhiễm virus ra khỏi cơ thể .

- Duy trì tình trạng nhiễm trùng kéo dài nhưng không chuyển thành bệnh.

Vì lẽ HIV có thể dẫn đến AIDS sau 1 thời gian không có triệu chứng, cho nên mục đích mong muốn của phần lớn các thử nghiệm vaccin chống HIV là cố gằng tạo ra đựơc 1 tình trạng miễn dịch vô trùng. Tuy nhiên, khó mà đạt đựơc tình trạng miễn dịch vô trùng bởi vì đa số các vaccin chống virus hiện có đều ngăn đựơc bệnh nhưng không ngăn ngừa đựơc tình trạng nhiễm virus. Vì thế người ta mới chuyển qua 1 mục tiêu thay thế khi phát triển vaccin HIV là làm sao tạo đựơc các đáp ứng miễn dịch có tác dụng ngăn chặn không cho HIV sao chép, tức là để cho giai đọan không có triệu chứng kéo dài vô hạn, tương tự như những người không diễn tiến dài hạn (long-term nonprogressors ). Mặc dù các nghiên cứu về vaccin trên mô hình linh trưởng ( trừ người ) đôi khi tạo được tình trạng hoặc giảm tải lượng virus hoặc kéo dài thời gian sống sót trên các động vật đựơc gây miễn dịch ( thậm chí không có miễn dịch vô trùng ) , nhưng tình trạng nhiễm trùng không triệu chứng kéo dài trong nhiều năm rất hiếm khi đạt đựơc.

Do HIV có đặc điểm là lây truyền vừa rộng rãi vừa không hiệu quả, cho nên người ta cho rằng ngay cả 1 vaccin chống HIV chỉ có hiệu lực một phần cũng có khả năng cứu được sinh mạng hàng triệu người. Tuy nhiên, còn có những yếu tố khác ảnh hưởng đến hiệu lực làm giảm sự lây truyền HIV của 1 vaccin, chẳng hạn như thời gian hiệu lực của miễn dịch và các tác dụng không mong muốn khi thực hiện tiêm chủng đối với các hành vi nguy cơ. Chẳng hạn , ta gây tiêm vaccin HIV cho 1 người, người này chỉ đạt được hiệu quả miễn dịch một phần, sau đó lại gây nhiễm HIV cho người này, đáp ứng miễn dịch hình thành sẽ ngăn chặn không cho virus sao chép của virus thấp đến mức trong cơ thể người nhiễm tuy có một số lượng virus lưu thông nhưng không xuất hiện triệu chứng. Nếu người này vẫn duy trì hoặc thực hiện các hành vi nguy cơ cao như dễ dãi và bừa bãi trong quan hệ tình dục, thì số lượng virus trong các dịch cơ thể tuy thấp nhưng vẫn có khả năng lây truyền cho người khác kết quả dẫn đến là đẩy mạnh sự lây truyền HIV thay vì làm giảm. Vì thế, phải cân nhắc nhiều mặt khi đưa ra 1 lọai vaccin HIV chỉ có hiệu quả một phần.

Tạo miễn dịch để ngăn chặn sự biến chuyển từ nhiễm sang bệnh lâm sàng

Người ta thường đánh giá 1 vaccin chống virus qua hiệu qủa ngăn ngừa được tình trạng nhiễm trùng do virus đó gây ra. Chiến lược vaccin nào không thoả mãn được mức độ bảo vệ lý tuởng này coi như không đạt yêu cầu . Tuy nhiên, với 1 vaccin HIV, để đạt tác dụng dự phòng, thì tác nhân sinh miễn dịch trong vaccin phải tạo ra được 1 đáp ứng kháng thể có tác dụng trung hoà nhiều phân lập HIV. Nhưng cho đến nay vẫn còn chưa tạo được 1 đáp ứng miễn dịch như thế với các nguyên mẫu vaccin hiện có, cho nên nói chung trong lãnh vực nghiên cứu HIV về khả năng tìm ra được 1 vaccin HIV hữu hiệu vẫn chưa có gì sáng sủa.

Tuy vậy , những phát hiện mới từ các nghiên cứu mô hình linh trưởng ( trừ con người ) đã cho thấy rằng công nghệ sản xuất vaccin hiện nay cũng cung cấp được một số lợi ích dù rằng không bảo vệ khỏi bị nhiễm virus hoàn toàn. Trên mô hình khỉ được gây miễn dịch bằng nhiều tác nhân sinh miễn dịch mới như plasmid DNA, plasmid DNA được gia cường với Cytokines, MVA tái tổ hợp, adenovirus tái tổ hợp sau khi lấy bớt gien, và tiêm plasmid DNA sau đó được tăng cường bằng MVA tái tổ hợp hoặc adenovirus lấy bớt gien, đều cho thấy rằng khả năng hạn chế tình trạng nhiễm trùng của các vácxin trên có tăng lên với những virus HIV có tính sinh bệnh cao. Những vaccin này không khơi dậy được những đáp ứng KT trung hoà rộng rãi và, vì thế không tạo được miễn dịch thanh toán được tác nhân gây nhiễm, nhưng tất cả các vaccin đó đều kích phát các đáp ứng CTL chuyên biệt cho virus và giúp hạn chế phần nào sự sao chép virus trên các động vật được tiêm chủng. Ngoải ra, mức độ sao chép của virus trên mô hình động vật tương ứng với tốc độ diễn tiến của bệnh. Có bằng chứng cho thấy động vật nào có khả năng ngăn chặn tốt sự sao chép virus thì thời gian sống sót không có bệnh ( disease-free survival) kéo dài.

Những kết qủa này cho thấy rằng những thiết kế vaccin nào gây được các đáp ứng CTL mạnh sẽ có khả năng giúp hạn chế không cho virus duy trì tình trạng sao chép luôn luôn cao như thường gặp ở những người nhiễm HIV. Một tình trạng miễn dịch do vaccin tạo ra như thế có thể làm chậm đi diễn tiến của bệnh nếu sau đó người được tiêm chủng bị nhiễm HIV. Một lợi ích thứ 2 có khả năng đạt được từ chiến lựơc vaccin này là đối với những người đã được tiêm chủng, khi bị nhiễm HIV, lượng virus trong các dịch tiết có khả năng sao chép cũng thấp. Ta cũng biết rằng khả năng lây truyền virus từ 1 người bị nhiễm sang người lành tương quan với mức độ virus có trong máu và các dịch tiết của người nhiễm, cho nên những ai đã đựơc tiêm chủng rồi sau đó bị nhiễm virus có thể sẽ có ít khả năng lây truyền virus hơn những người bị nhiễm nhưng trước đó chưa hề được tiêm chủng. Như vậy, 1 vaccin khơi dậy đựơc CTL rốt cuộc sẽ làm chậm sự lây lan HIV ra cọng đồng. Vì thế , có nhiều khả năng sẽ đưa ra được những vaccin tạo được tình trạng miễn dịch làm cho bệnh nhẹ đi và làm chậm tốc độ lây lan của virus trong quần thể . Nếu được như vậy, lợi ích sẽ rất lớn, nhất là đối với những vùng trên thế giới chưa có điều kiện hạ tầng để phân phối thúôc kháng virus cho người nhiễm HIV.

Tuy nhiên , một ghi nhận gần đây trên mô hình linh trưởng ( trừ con người ) cho thấy rằng cách tiếp cận vaccin chỉ dựa vào khả năng khơi dậy CTL vẫn còn một số hạn chế. Trên mô hình khỉ được tiêm chủng và sau đó cho lây nhiễm với 1 phân lập virus HIV, khả năng ức chế ban đầu của CTL trên sự sao chép virus sẽ không còn nữa bởi vì qua nhiều lần virus biến dị, CTL không còn nhận diện được virus nữa. Vì thế, tình trạng virus tránh thoát được CTL chứng minh cơ chế chung vì sao có sự thất bại vaccin trên các cá thể đựơc tiêm vaccin thuộc loại này. Dù vậy , những biến cố virus học như thế không nhiều nếu các đáp ứng miễn dịch do vaccin tạo ra có tác dụng kìm hãm, chỉ cho virus sao chép ở mức độ rất thấp, bởi vì khi virus sao chép ở mức độ thấp thì mức độ biến dị tích tụ cũng sẽ chậm theo.

Tính an toàn

Do những khó khăn gặp phải khi phát triển các chiến lược vaccin truyền thống nhằm tạo đựơc sự bảo vệ chống nhiễm HIV, một số nhà nghiên cứu đưa ý kiến là nên sử dụng những cách tiếp cận có nguy cơ cao hơn, như sử dụng vaccin HIV-1 sống giảm độc lực. Vaccin SIV sống giảm độc lực đã tạo đựơc thành công lớn là gây đựơc miễn dịch bảo vệ trên mô hình SIV/khỉ macaque. Tuy nhiên, vẫn còn lo ngại là liệu vaccin HIV-1 sống giảm độc lực có chuyển ngược thành dạng có độc lực hoặc gây ra ung thư hay không ?. Người ta cho khỉ macaque sơ sinh uống các liều cao 1 chủng SIV giảm độc lực có chứa 3 khuyết đọan ( deletion) riêng rẽ trên bộ gien, kể cả khuyết đọan trên gien nef, và đã gây được tình trạng tải virus cao và suy giảm miễn dịch, mặc dù với liều thấp thì kết qủa trên không xảy ra cũng như khi có sự hiện diện các KT có nguồn gốc từ mẹ trong máu. Các kết quả sơ bộ cho thấy có một số ít khỉ macaque trưởng thành khi bị gây nhiễm các chủng SIV giảm độc lực, gien nef bị cắt đoạn cũng cho kết quả bị suy giảm miễn dịch và tải lượng virus cao. Cũng chưa rõ cơ chế vì sao những chủng SIV bị khuyết đoạn ở gien nef lại không bị giảm độc lực. Vì những lo ngại này, chắc rằng trong nhiều năm nữa vẫn chưa có thử nghiệm vaccin HIV-1 sống giảm độc lực trên con người.

IV. Những đặc điểm trong qúa trình phát triển vaccin

Các động vật thuộc loài linh trưởng ( trừ nguời ra ) được coi là mô hình thích hợp nhất để nghiên cứu về AIDS. Nhóm virus gây bệnh cho các loải linh trưởng là SIV ( simian immunodeficiency viruses ) và các phân lập HIV-1 và HIV-2 gây nhiễm cho người đều nằm trong 1 nhóm lớn lentiviruses. SIV có tính lưu hành gây nhiễm cho các loải linh trưởng tại châu Phi nhưng lại không chuyển thành bệnh AIDS như ở người. Tuy nhiên, một số trong những phân lập này lại gây bệnh AIDS khi được tiêm vào loải khỉ macaque châu Á. Ngoải ra, hiện nay đã phát triển được một dạng virus lai ( chimeric) gây suy giảm miễn dịch khỉ -người ( simian human immunodeficiency viruses = SHIV) ‘ tức là virus có các glycoprotein vỏ bọc HIV gắn trên bộ khung SIV, virus này có thể gây ra bệnh giống như AIDS diễn tiến rất mau trên loải khỉ macaque.

1.Vai trò của các Protein monomer vỏ bọc

Ngay sau khi tìm ra HIV là tác nhân gây bệnh AIDS, đã có các nỗ lực tìm cách phát triển 1 vaccin hữu hiệu. Dựa trên kinh nghiệm có đựơc từ cách phát triển vaccin viêm gan B chế tạo theo công nghệ di truyền, các nhà nghiên cứu đều tập trung vào các dạng tái tổ hợp của vỏ bọc virus, vì đây là đích cho các KT trung hoà tấn công trên người nhiễm HIV. Tất cả đều dựa vào giả thiết cho rằng các KT chống lại vỏ bọc sẽ gắn kết, trung hoà và thanh toán các vi hạt HIV trước khi hình thành tình trạng nhiễm trùng.

Các dạng hoà tan của gp 120, tất cả hoặc 1 phần của gp 160 chưa tách, và các peptid vỏ bọc đều đựơc đem thử tính an toàn và tính sinh miễn dịch trong các thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 1. Trên các dòng tế bào có nguồn gốc từ động vật có vú, gp120 dẫn dụ đựơc sự thành lập các KT trung hoà trong phòng thí nghiệm sử dụng HIV được nuôi cấy và đưa ra thử nghiệm trên các dòng tế bào lymphô T được nuôi cấy dài ngày ( immortalized ). Tuy nhiên, các thí nghiệm sau này chứng minh rằng kháng huyết thanh (antiserum) không trung hoà được các phân lập HIV bậc 1 đựơc nuôi cấy và đem ra thử trên các tb đơn nhân lấy từ máu ngoại vi còn mới ( fresh ). Do còn chưa hiểu rõ ý nghĩa lâm sàng của những thí nghiệm này, và cũng vì gp120 có tác dụng bảo vệ được loài tinh tinh khỏi bị nhiễm HIV, cho nên người ta đã triển khai 2 thử nghiệm thuốc giai đoạn 3. Ở giai đọan này, vaccin không bảo vệ được người khoẻ mạnh khỏi nhiễm HIV.

Các nghiên cứu cơ bản về vỏ bọc HIV giúp ta hiểu rõ hơn vì sao việc dẫn dụ hình thành KT trung hoà đựơc các phân lập đầu tiên của HIV lại khó khăn đến thế. Bởi vì vỏ bọc trên bề mặt virion là 1 trimer thay vì 1 monomer. Các vùng sinh miễn dịch của monomer bị trimer có sẵn trên bề mặt virus bao kín lại. Protein vỏ bọc có vô số các gốc glycan gắn nối N bao phủ, khi gắn vào thụ thể CD4 nằm trên bề mặt tb sẽ thay đổi hình dạng khá nhiều, và để lộ ra các trình tự có tính thay đổi cao. Tác dụng của các KT trên các vùng biến đổi này ( variable regions ) bị vô hiệu vì sự xuất hiện của những biến thể tạm gọi là biến thể trốn tránh này. Ngoải ra , cần có nhiều KT trung hoả mới ngăn chặn được tình trạng gây nhiễm.

2. Các vaccin tb T

Các mô hình động vật gây nhiễm HIV chứng tỏ rất có giá trị trong việc thăm dò các cơ chế vaccin tác dụng lên tình trạng nhiễm trùng và bệnh khi gây nên được các đáp ứng tb T sơ bộ. Khi gây nhiễm SIV cho khỉ macaque, người ta thấy có 1 đợt virus –máu tăng lên rất cao sau đó giảm xuống dần tương tự như diễn biến trong nhiễm HIV ở người. Các nghiên cứu cũng chứng minh rằng tb lymphô ký ức CD4+ trong mô lymphô ở ruột bị phá hủy ồ ạt trong những tuần đầu sau khi bị nhiễm SIV, cũng giống như ở người.

Tạo miễn dịch cho loải linh trưởng ( trừ con người ) bằng các vaccin gây được các đáp ứng sơ bộ tb T cho các kết qủa kết hợp hoặc riêng rẽ là : không có đợt tăng vọt đầu tiên của virus trong máu, nồng độ virus ở điểm cân bằng bị giảm, giảm tổng số lượng virus đựơc sản xuất trong giai đọan đầu khi nhiễm trùng ( hình 7 ). Trên những động vật thí nghiệm này, người ta thấy diễn biến của bệnh chậm lại tương ứng với mức độ các đáp ứng tb T do vaccin gây nên. Khi tạo miễn dịch bằng một lọai vaccin gây đáp ứng tb T sẽ bảo tồn được số lượng tb ký ức CD4+ toản thân, và kết cuộc lâu dài đựơc cải thiện. Nồng độ virus ở mức cao nhất sẽ giảm theo lũy thừa 10, còn mức cao nhất các tb ký ức CD4+ T bị nhiễm sẽ giảm khoảng 75%.

Câu hỏi đặt ra là liệu 1 vaccin không ngăn chặn đựơc tình trạng gây nhiễm do virus nhưng làm giảm đi nồng độ HIV và bảo tồn đựơc số lựơng tb CD4+ T ký ức không bị nhiễm có đem lại ích lợi gì cho người được tiêm chủng. Các nghiên cứu về diễn tiến tự nhiên nhiễm HIV cho thấy mức độ virus ở điểm cân bằng có tương quan nghịch với diễn tiến của bệnh.Chỉ cần giảm ½ log số lựơng RNA virus cũng làm bệnh diễn tiến chậm lại. Nếu những nghiên cứu về diễn biến tự nhiên của bệnh cũng như trên các mô hình động vật có tính dự đoán, thì những ai đã đựơc tiêm vaccin tb T trước khi nhiễm virus có thể sẽ không bị bệnh trong 1 thời gian dài, và có thể hõan lại việc sử dụng thúôc điều trị virus.

Hơn thế nữa, nếu tình trạng nhiễm trùng ban đầu bị áp chế, và số lựơng tb CD4+ T ký ức tại mô lymphô ở ruột được bảo tồn, thì những đáp ứng miễn dịch mạnh, qua trung gian tb T do vaccin dẫn dụ, sẽ làm cạn đi các ổ chứa virus bằng cách tiêu huỷ các tb bị nhiễm HIV trước khi các vi hạt virus được phóng thích. Phần lớn các nghiên cứu trên loài linh trưởng ( trừ con người ) đã sử dụng virus tạo thử thách miễn dịch ( challenge virus ) ở các liều lượng cao đủ sức gây nhiễm tất cả con vật đối chứng chỉ sau 1 lần phơi nhiễm. Ngược lại, đối với HIV, xác suất bị nhiễm là 0.00007 đến 0.0028 cho 1 lần quan hệ tình dục, xác suất này tuỳ thuộc vào giai đoạn của bệnh và người đóng vai trò truyền bệnh không được điều trị bằng thúôc kháng retrovirus ; xác suất này tăng khi cơ quan sinh dục bị nhiễm bệnh lây qua đường tình dục ( STI ) như Herpes simplex typ 2. Các mô hình động vật linh trưởng sẽ bị nhiễm virus khi tạo phơi nhiễm nhiều lần qua cách đưa vào trong hậu môn những lượng virus tương đương với lượng virus có trong tinh dịch của người đang ở giai đoạn nhiễm HIV cấp. Kết qủa ghi nhận từ một trong những thí nghiệm đó là các động vật đã được tạo miễn dịch bằng vaccin tb T có xác suất bị nhiễm virus trên mỗi lần phơi nhiễm giảm so với nhóm chứng. Nếu các virus gây bệnh khác cũng cho những kết qủa như thế , có nghĩa là 1 vaccin tb T mạnh có thể giúp bảo vệ phần nào tình trạng không bị nhiễm hoặc làm cho thời gian không bị nhiễm kéo dài.

Nếu các vaccin tb T chứng tỏ có lợi cho từng cá thể, thì cũng nên xem xét để đưa ra sử dụng rộng rãi trong cộng đồng. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng các vụ dịch HIV phần lớn đều do sự lây truyền virus từ những người mang tải lượng virus cao. Trên 1 người nhiễm không đựơc điều trị, nồng độ virus cao nhất trong giai đoạn đầu và giai đoạn cuối, là 2 giai đoạn mà khả năng lây truyền cho bạn tình cao hơn so với những người có mức độ virus đã được kiểm soát. Các vaccin tạo ra đựơc đáp ứng miễn dịch có tác dụng hạn chế được nồng độ virus-máu ban đầu và sau đó tiếp tục kiểm soát mức độ virrut trong máu là vaccin có khả năng làm giảm tính lây nhiễm và làm giảm sự lan truyền HIV, mặc dù điều này còn phụ thuộc vào nhiều biến số như tính hiệu quả của vaccin, thời gian có tác dụng bảo vệ, mức độ bao phủ vaccin và các hành vi nguy cơ.

V. Các thiết kế vaccin

1. Các thiết kế vaccin truyền thống

Cho tới nay các nghiên cứu đã tiến hành để làm rõ sự sao chép HIV và bệnh sinh miễn dịch của bệnh AIDS cho thấy rằng HIV có tính độc đáo sinh học và vì thế không thể dự phòng bằng các đáp ứng miễn dịch tạo đựơc qua các phương thức sản xuất vaccin truyền thống. Trên thực tế, với các thực nghiệm trên loài linh trưởng và các nghiên cứu giai đọan sớm ở người đều chứng minh giả định này, và đều cho các bằng chứng đầy thuyết phục rằng các vaccin làm bằng virus sống giảm độc lực, vaccin virus bất hoạt và các vaccin protein tái tổ hợp tất cả đều không có khả năng ngăn ngừa đựơc sự gây nhiễm HIV và chuyển thành AIDS.

Với các bệnh đã có vaccin dự phòng, người ta có thể làm giảm in vivo độc lực của virus bằng cách nuôi cấy virus in vitro để làm giảm khả năng sinh biến dị của virus. Khi áp dụng cho người, các virus đã giảm độc lực về mặt bệnh sinh này đã giúp dự phòng đựơc những bệnh như sởi, sốt bại liệt và thuỷ đậu. Các nghiên cứu sơ bộ trên mô hình SIV/khỉ macaque cho thấy rằng có thể làm thay đổi cơ cấu phân tử của virus ( như cắt bỏ một phần chất liệu di truyền ), khiến cho virus còn giữ được tính lây nhiễm nhưng tính sinh bệnh bị giảm đi. Hơn thế nữa, các nghiên cứu này cũng chứng minh rằng khi gây nhiễm bằng các virus giảm độc lực này trước, sẽ ngăn ngừa đựơc tình trạng nhiễm trùng nếu sau đó mắc 1 chủng virus hoang dại có tính sinh bệnh.Tuy những kết qủa đựơc báo cáo như trên đã nhóm lên hy vọng là vaccin HIV giảm độc lực có tính khả thi, nhưng những nghiên cứu sau đó lại chứng minh rằng cách tiếp cận thiết kế vaccin HIV này còn nhiều điểm vướng mắc.

Những nghiên cứu sâu hơn về mô hình SIV/khỉ macaque cho thấy rằng khi gây nhiễm cho khỉ sơ sinh hoặc khỉ trưởng thành trong 1 thời gian dài bằng các chủng virus dùng để làm vaccin đó về sau sẽ chuyển thành AIDS và chết. Cũng tương tự như thế, người ta cũng đưa ra 1 nhóm trường hợp gây nhiễm ở người bằng 1 phân lập HIV đã đựơc làm yếu khả năng sao chép và làm giảm tính sinh bệnh. Tuy nhiên, cũng giống như các nghiên cứu trên mô hình SIV/khỉ macaque, những người bị gây nhiễm này về sau lần lượt đều chuyển thành AIDS, dù rằng thời gian từ lúc được gây nhiễm đến lúc phát bệnh có kéo dài. Những nghiên cứu như thế cho thấy rằng không thể nào giải quyết bài toán khó khăn là làm sao bảo đảm cho 1 virus được làm giảm độc lực nhưng vẫn sao chép ở mức độ cao tạo ra được miễn dịch bảo vệ và tính sinh bệnh về sau của virus. Vì thế, hiện nay không còn mấy ai cố công theo đuổi các chiến thuật sử dụng virus giảm độc lực để làm vaccin HIV.

Cho tới nay các chiến lược sử dụng virus bất họat làm vaccin chứng tỏ có ích để dự phòng các bênh như cúm, sốt bại liệt ở người, nhưng lại không có triển vọng trong mô hình SIV/khỉ macaque. Phương thức vaccin này chứng tỏ có khả năng bảo vệ được khỉ khi chúng được thử thách bằng SIV tương tự như virus được sử dụng trong bào chế vaccin, và vào thời điểm có mức độ miễn dịch cao nhất. Tuy nhiên, sự bảo vệ do vaccin này được chứng minh là không mạnh cũng như không có phổ rộng. Tức là, sẽ không có tính bảo vệ khi các chủng virus được đem ra thử thách và virus làm vaccin chỉ cần khác biệt chút ít về mặt di truyền hoặc thậm chí đối với những con khi đã đựơc tiêm vaccin, sau đó cho tiếp xúc với virus sau khi đã có miễn dịch đựơc vài tuần. Ngoải ra, một số ít nghiên cứu cho thấy rằng sự bảo vệ ghi nhận trong mô hình động vật này chỉ là kết quả giả tạo trên thực nghiệm hơn là tình trạng miễn dịch chuyên biệt đối với virus.

Còn ở người, các tác nhân sinh miễn dịch (immunogen) có nguồn gốc từ virus đã bất họat được đánh giá qua một số thử nghiệm sinh miễn dịch vào giai đọan đầu đều cho kết qủa không mấy phấn khởi. Những tác nhân sinh miễn dịch này không tạo ra đựơc đáp ứng KT làm trung hoả các phân lập HIV, vì các tác nhân sinh miễn dịch chỉ giữ được một phần rất nhỏ các glycoprotein của vỏ bọc virus. Ngoải ra, do tác nhân sinh miễn dịch này không gây đựơc sự tổng hợp protein trong tb, cho nên không kích thích các đáp ứng CTL. Vì vậy, giống như chiến lược vaccin sống giảm độc lực, dường như các nghiên cứu về tác nhân sinh miễn dịch từ virus HIV bất họat cũng không còn được mấy ai theo đuổi.

Cuối cùng, là các protein virus được tinh chế cao, sản xuất theo kỹ thuật DNA tái tổ hợp, vốn là các tác nhân sinh miễn dịch có hiệu quả cao trong nội dung dự phòng nhiễm virus viêm gan B ở người. Vài năm trước, phương thức bào chế vaccin này đã được triển khai trên các mô hình linh trưởng ( trừ người ), với tác nhân sinh miễn dịch là glycoprotein vỏ bọc HIV tái tổ hợp ; mô hình này chỉ đạt được kết qủa khiêm tốn trên động vật, với điều kiện là virus đem thử thách và glycoprotein vỏ bọc gây miễn dịch có cùng trình tự. Tuy vậy, người ta cũng tiến hành các thử nghiệm về tính sinh miễn dịch ở người vào giai đoạn đầu. Các đáp ứng KT đạt được trong các nghiên cứu này có hiệu giá không cao và không cho phản ứng trung hoả với nhiều phân lập HIV. Hơn thế nữa, cũng giống như những dự kiến với 1 tiểu đơn vị sinh miễn dịch (subunit immunogen), các protein này không gây được các đáp ứng CTL

Hiện nay, người ta đang triển khai tại Mỹ và Đông nam Á các thử nghiệm về hiệu lực giai đọan 3 với các tiểu đơn vị sinh miễn dịch của vỏ bọc virus nhưng cọng đồng khoa học cũng không đặt mấy hy vọng là các nghiên cứu trên chứng minh được sự bảo vệ có ý nghĩa khỏi bị nhiễm HIV, vì lẽ cách tiếp cận này không tạo được đáp ứng miễn dịch chủ yếu có thể ngăn chặn HIV. Như vậy, các phương thức truyền thống đựơc chứng minh là không tạo ra đựơc 1 vaccin HIV hữu hiệu.

2.Các thiết kế vaccin mới

Từ nhận định cho rằng các chiến lược truyền thống trên còn nhiều hạn chế không tạo được miễn dịch dự phòng HIV hưu hiệu đã thúc đẩy các nhà nghiên cứu tìm kiếm một lọat các thiết kế vaccin mới. Cách tiếp cận đầy triển vọng nhất trong các thiết kế này là sủ dựng các tác nhân sinh miễn dịch plasmid DNA và các vectơ tái tổ hợp sống .

Hơn 10 năm trước, người ta đã chứng minh rằng các plasmid mã hoá protein dưới sự kiểm soát của các promoter mạnh có khả năng sinh miễn dịch khi đem tiêm bắp cho các động vật thí nghiệm nhỏ. Những nghiên cứu sau đó chứng minh rằng nếu được đưa vào cơ thể các plasmid này có bổ sung các chất bổ trợ đặc biệt hoặc các cytokines thì tính sinh miễn dịch sẽ được gia tăng đáng kể. Những tác nhân sinh miễn dịch như thế được coi là rất có ích để thức đẩy sự hình thành các đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào. Ngoài ra, có một số nghiên cứu gợi ý rằng plasmid DNA đóng vai trò là 1 tác nhân sinh miễn dịch khởi đầu hoặc tác nhân mồi ( primer) rất hiệu quả trong chiến lược vaccin 2 thì ( bimodal ). Trong lúc cách tiếp cận này được coi là 1 phương tiện an toàn thúc đẩy sự hình thành đáp ứng CTL, thì các số liệu sơ bộ từ những nghiên cứu trên súc vật lớn lại làm ta phải suy nghĩ là ở người, để có được đáp ứng miễn dịch hữu ích, liệu có cần tiêm 1 khối lượng lớn plasmid DNA hay không ?. Dù vậy, một số nghiên cứu các giai đoạn đầu ở người cũng đã tiến hành để thăm dó khả năng lấy các tác nhân sinh miễn dịch plasmid DNA làm vaccin HIV.

Các vectơ tái tổ hợp sống cũng được coi như là công cụ để kích thích các đáp ứng miễn dịch chống lại HIV. Người ta đem các gien HIV gắn vào các vi sinh vật có khả năng sao chép tức là biến các vi sinh vật tái tổ hợp này thành vật mang gien ( vector ). Khi đem các vi sinh vật trên gây nhiễm cho người, sẽ kích thích sự hình thành miễn dịch đối với vật mang và với gien của HIV mà vectơ đó mang theo. Những tác nhân sinh miễn dịch như vậy có tính kích thích CTL rất mạnh, bởi vì các protein HIV được tạo ra bên trong vi sinh vật vectơ khi sao chép và như vậy sẽ tham dự vào lộ trình xử lý MHC lớp 1.

Các vi sinh vật được coi là phù hợp nhất để làm vectơ cho vaccin HIV là những vi rut thuộc nhóm virus đậu mùa ( poxvirus). Nguyên mẫu trong họ này là virus đậu bò ( vaccinia ), đây là virus có khả năng sao chép tốt được sử dụng làm vaccin trong chiến dịch thanh toán đậu mùa trên thế giới. Mặc dù những nghiên cưú trên loài linh trưởng ( trừ con người) đã chứng minh rằng các virus đậu bò tái tổ hợp có thể kích thích các đáp ứng CTL mạnh đối với các protein SIV và HIV, nhưng các tiêu chuẩn về an toàn lại không bảo đảm để sử dụng vectơ này làm ứng viên vaccin HIV. Có báo cáo cho thấy trên người bị suy giảm miễn dịch, virus đậu bò có khả năng phát tán mạnh, đôi khi gây viêm não rất nặng. Do thực tế là những vùng HIV lưu hành, yêu cầu cần có 1 vaccin HIV rất bức thiết, nhưng đây cũng là vùng có nhiều người đã nhiễm HIV, tức là đã suy giảm miễn dịch, có khả năng họ sẽ là những người được tiêm vaccin HIV trong 1 chiến dịch tiêm chủng toàn dân. Và hoàn toàn có cơ sở để lo ngại sẽ xảy ra 1 tình trạng nhiễm virus đậu bò gây chết người cho một số đông người đã bị nhiễm HIV khi được tiêm vaccin HIV với vectơ là virus đậu bò.

Ngưòi ta cũng chú ý đến những virus khác thuộc nhóm poxvirus để làm vectơ cho vaccin HIV, trong số này đáng chú ý nhất là virus đậu bò Ankara cải biến ( modified vaccinia Ankara =MVA). Đây là 1 phân lập virus được cấy chuyển nhiều lần in vitro, cho nên bộ gien của MVA có nhiều khuyết đoạn ( deletion), tức là virus có khả năng gây nhiễm và sinh miễn dịch nhưng khả năng gây bệnh đã giảm đi nhiều. Các nghiên cứu trên loài linh trưởng ( trừ con người ) cho thấy MVA gây được các đáp ứng miễn dịch khá mạnh, khi được đưa vào cơ thể dưới dạng tác nhân sinh miễn dịch đơn lẽ hoặc dạng tác nhân sinh miễn dịch tiêm bổ trợ ( boost) sau khi đã được gây miễn dịch trước bằng plasmid DNA. 1 virrut khác thuộc nhóm vaccinia được dùng làm vectơ vaccin là NYVAC, virus này bị lấy đi lấy đi một số gien, và cũng đã chứng minh là gây được 1 đáp ứng miễn dịch tương đương với MVA trên mô hình linh trưởng. Cả 2 virus MVA và NYVAC sẽ sớm được đưa vào đánh giá ở người ở giai đoạn sớm ( early phase ). Nhưng các poxvirus ở loài chim mới chính là nhóm được đưa vào nghiên cưú làm vectơ cho vaccin HIV rộng rãi nhất. Về mặt bệnh sinh, Poxvirrus chim hoàng yến ( canary poxvirus) không hoàn tất được chu kỳ sao chép trên tế bào người, chỉ đến giai đọan tổng hợp các protein cho virus. Người ta cho rằng, mức độ protein biểu lộ này cũng đủ để cho MHC lớp 1 xử lý. Các mô hình poxvirus hoàng yến đã được nghiên cứu rộng rãi trên người trong những năm gần đây. Những nghiên cứu này cho thấy canarypox tái tổ hợp có tính an toàn và sinh miễn dịch, tạo được đáp ứng kháng thể trên 70% người được tiêm chủng và đáp ứng CTL có thể phát hiện vào bất cứ thời điểm nào sau khi tiêm chủng ở khoảng 30% các cá thể được tiêm. Hiện nay có 1 thử nghiệm về hiệu lực của tác nhân sinh miễn dịch canarypox tái tổ hợp đang đưọc triển khai tại Đông nam Á.

Có lẽ vectơ tái tổ hợp sống được đánh giá là nhiều triển vọng nhất để làm vaccin HIV cho tới nay là adenovirus được lấy bớt gien ( gene-deleted ) được phát triển để làm vectơ trong liệu pháp gien ( gene therapy). Với Adenovirus chủng huyết thanh 5 không sao chép được khi bị lâý bớt hoặc làm bất hoạt gien E1 và E3, các nghiên cứu ở chuột nhắt và loài linh trưởng ( trừ con người ) cho thấy chủng này có tính sinh miễn dịch cao. Những vectơ trên tạo được các đáp ứng KT hiệu giá cao và CTL tần số cao trên các mô hình sức vật trên. Hiện nay, các thử nghiệm về tính sinh miễn dịch HIV giai đọan sớm của vectơ này đang triển khai trên người. Các kết qủa sơ bộ từ những nghiên cứu trên cho thấy rằng những đáp ứng KT có từ trước đối với Adenovirus typ huyết thanh 5 ở những người đã từng nhiễm virus này khi bị cảm cúm đã làm giảm đáng kể mức độ sinh sinh miễn dịch của các vaccin trên. Nhưng hiện nay cũng có 1 số chiến lược được đưa ra nhằm giải quyết vấn đề này. Tức là tính sinh miễn dịch của các vectơ tái tổ hợp sẽ tăng lên nêú các vectơ này được sử dụng để tăng cường các đáp ứng miễn dịch đã được plasmid DNA kích phát.

Như vậy, có thể sử dụng hệ thống vectơ này để khơi dậy các đáp ứng miễn dịch đúng mức với HIV đối với người đã có miễn dịch đối với adenovirus typ huyết thanh 5 bằng cách cho tiêm cho họ trước tiên bằng vaccin plasmid DNA sau đó tạo miễn dịch bằng các cấu trúc tái tổ hợp adenovirus typ huyết thanh 5. Người ta cũng có thể phát triển các vaccin tương tự có tính sinh miễn dịch tương đương bằng cách sử dụng các adenovirus thuộc các typ huyết thanh ít gặp, là những phân lập mà phần lớn chúng ta chưa hề phơi nhiễm trước đó. Ngoài ra, người ta còn phát triển các cấu trúc vaccin khác với các phân lập adenovirus lấy từ các loài linh trưởng ( trừ người ra ). Những virus này không phải là tác nhân gây bệnh tự nhiên ở người cho nên không gây nhiễm cho người. Tuy nhiên đối với những vectơ như vậy, cần phải chứng minh được khả năng sinh miễn dịch ở người.

Một số các virus khác có khả năng sao chép cũng được thăm dò xem chúng có khả năng làm vectơ cho vaccin HIV. Đó là nhóm alphavirus có 1 chuỗi RNA (virus gây viêm não ngựa ở Venezuela và virus rừng Semliki) và virus gây viêm hạch họng (adeno-associated virus). Các hệ thống vectơ bằng vi khuẩn đựơc chú ý nhiều hiện nay là trực khuẩn BCG Mycobacterium giảm độc lực và một số trực khuẩn đường ruột đã giảm tính gây bệnh. Tất cả những tiếp cận này sẽ được kiểm định về tính sinh miễn dịch trên người trong thời gian tới.

Một trong những vấn đề khó khăn nhất nẩy sinh là khi phát triển 1 tác nhân sinh miễn dịch có khả năng gây ra được các đáp ứng KT chống lại vỏ HIV, KT này có khả năng trung hoà được nhiều phân lập HIV. Hiện nay, các nhà nghiên cứu đang tích cực theo đuổi những chiến lược mới để tìm cho được một tác nhân sinh miễn dịch chống lại vỏ bọc virus. Giả định rằng được bảo toản về mặt di truyền, các epitope ( nhóm quyết định kháng nguyên) nằm trên vỏ bọc HIV tham gia vào phản ứng trung hoà có thể tránh thoát không bị hệ thống miễn dịch tấn công trong suốt thời gian virus gây nhiễm , các nhà nghiên cứu đang đánh giá những tác nhân sinh miễn dịch này bằng cách bóc gốc glycan nối với N và các cấu trúc ở vùng ưa biến đổi ( variable loop) khỏi vỏ bọc HIV.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng có thể chế tạo 1 vaccin hữu hiệu bằng cách đưa ra 1 tiểu đơn vị sinh miễn dịch ăn khớp với nếp xếp tự nhiên ( native folding ) của glycoprotein vỏ bọc HIV. Do glycoprotein vỏ bọc của virus nguyên thủy là các oligomer, cho nên người ta đưa ra 1 loạt các protein vỏ bọc gồm những oligomer bền vững để đánh giá xem chúng có phải là tác nhân sinh miễn dịch hay không. Những hiểu biết sâu hơn gần đây về tiến trình gây nhiễm HIV trên 1 tế bào cho ta thấy rằng vỏ bọc virus phải trải qua 1 loạt những thay đổi về hình dạng khi gắn kết vào màng tế bào. Do đó người ta thử tìm cách phát triển những tiểu đơn vị sinh miễn dịch hoạt động giống như những thể trung gian khi vỏ bọc virus hoà hợp màng với tế bào.

Cuối cùng, vì lẽ 1 vaccin HIV hữu hiệu phải kích phát đựơc KT có tác dụng trung hoà các nhóm quyết định kháng nguyên nằm trên các vỏ bọc HIV, cho nên một số nhà nghiên cứu lý luận rằng nên đánh giá tính sinh miễn dịch của các hỗn hợp gồm có các protein vỏ bọc đa giá. Gắn đựợc một trong những tác nhân sinh miễn dịch này vào 1 vaccin HIV sẽ là một hướng mới quan trọng khác với các vaccin thông thường làm bằng các tiểu đơn vị virus.

Mặc dù chưa rõ là 1 vaccin HIV hữu hiệu sẽ như thế nào, nhưng ngày càng có nhiều người nhất trí rằng không phải chỉ có 1 mô hình vaccin duy nhất. Với phương thức vaccin 2 thì ( bimodal), người ta sử dụng 1 vectơ tái tổ hợp sống hoặc 1 plasmid DNA để kích phát các CTL, sau đó dùng tác nhân sinh miễn dịch tiểu đơn vị để kích thích đáp ứng sinh KT trung hoà. Ngoài ra, càng ngày càng có nhiều bằng chứng cho biết đáp ứng CTL sẽ tăng mạnh khi kết hợp 2 phương thức vaccin có tác dụng bỗ trợ nhau. Điều này đã đựơc chứng minh rõ ràng là khi gắn plasmid DNA với MVA tái tổ họp sống hoặc bằng cách tiêm chủng adenovirus.

Như vậy, ngay cả 1 vaccin dựa trên cơ sở CTL cũng có khả năng sử dụng 2 phương án vaccin khác nhau : một vaccin tác dụng làm mồi ( primer ), 1 vaccin tác dụng tăng cường. Cách tiếp cận này là 1 bước thay đổi rất lớn so với các thiết kế vaccin truyền thống.

VI. Kết luận

Mặc dù các nghiên cứu trên khỉ cho thấy rằng các KT trung hoà có thể bảo vệ không bị nhiễm virus HIV, nhưng các chiến lược vaccin nhằm đạt được các đáp ứng miễn dịch như vậy vẫn còn chưa có. Càng ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy tầm quan trọng của CTL trong việc ngăn chặn không cho HIV phát tán trên cơ thể người nhiễm, cho nên hiện nay có một số chiến lựơc vaccin đang đựơc triển khai nhằm phát hiện các tb có tác dụng miễn dịch đó. Những chiến lựơc này bao gồm việc sử dụng plasmid DNA, các vectơ virus tái tổ hợp sống, và cách tiếp cận tạo mồi / gia cường ( prime/boost ). Đáng chú ý là, trong khi những vaccin dẫn dụ CTL này không tạo ra được tình trạng miễn dịch bị nhiễm HIV ở khỉ, nhưng lại tạo ra đựơc 1 tình trang miễn dịch giúp ngăn chặn không cho virus sao chép nếu bị nhiễm HIV sau đó. Trên nhóm khỉ được tiêm chủng, rồi sau đó được gây nhiễm HIV, đáp ứng miễn dịch ngăn chặn không cho virus sao chép dẫn đến kéo dài thời gian sống sót không bệnh (disease-free survival ). Hiện nay, các chiến lược vaccin mới đang triển khai thử nghiệm giai đoạn đầu trên các tình nguyện viên. Ngày càng có nhiều người tin rằng, nếu không dự phòng được bệnh thì 1 vaccin HIV ít nhất cũng làm chậm đi diễn tiến của bệnh.

Ghi chú :

1. Tb T là các bạch cầu dòng lymphocytes, đóng vai trò quan trọng trong miễn dịch qua trung gian tế bào. Tb T khác vói các nhóm tb lymphocyte như tb B và tb NK ở điểm trên bề mặt những tb T có 1 thụ thể đặc biệt gọi là thụ thể tb T ( T cell recptor =TCR). T viết tắt chữ thymus bởi vì đòng tb này có nguồn gốc từ tuyến hung ) thymus ) .

2. CD4+T: cũng còn gọi là T helper, là đích tấn công của HIV ; virus này gây nhiễm cho tb bằng cách gắn vào protein CD4 của tb để từ đó chui vào tb. Trong trường hợp nhiễm HIV, khi số lượng tb CD4+T bị giảm xuống <200 tb/cc máu, các triệu chứng AIDS xuất hiện.

3. CD8+T : do hiện diện glycoprotein CD8 trên bề mặt tb. CD8+T còn gọi là Cytotoxic T lympocytes = CTL là tb có hoạt tính tiêu diệt các tb bị nhiễm virus và các tb gây ung bướu, CD8+T cũng tham gia trong phản ứng thải ghép.

4. challenge virus : virus đóng vai trò 1 kháng nguyên chuyên biệt được đưa vào cơ thể để tạo nên 1 đáp ứng miễn dịch hoặc để đánh giá 1 đáp ứng miễn dịch mà trước đó đã được đưa vào cơ thể để gây mẫn cảm ( sensitize ).