NewYork Paris Hà Nội Khách thứ :

NIỀM TIN TƯƠNG LAI

     

Nhận biết chứng loét dạ dày ( bao tử )

Hiện cứ 10 người lại có 1 người bị đau, loét dạ dày. Bạn có thể nhận biết bệnh này qua các dấu hiệu như đau sau ăn, đau lúc nửa đêm khi bạn không ăn gì trong nhiều giờ, ăn kém ngon...

Đa số trường hợp loét dạ dày do vi khuẩn Helicobacter pylori (HP) gây nên. Ở các nước đang phát triển, tình trạng nhiễm loại khuẩn này khá phổ biến, hầu như mọi người đều có thể bị nhiễm.

Người bệnh thường nhiễm khuẩn khi còn nhỏ, thường từ mẹ sang con và vi khuẩn này có thể tồn tại trong dạ dày trong suốt phần đời còn lại. Nhiễm khuẩn mạn tính bắt đầu ở phần dưới của dạ dày, dần dần làm gia tăng mức axit được tiết ra ở vùng dạ dày khỏe mạnh phía trên, dẫn tới loét.

Làm thế nào để biết mình bị loét dạ dày? Các bác sĩ sẽ đánh giá dựa vào các triệu chứng của bạn. Tuy nhiên, cũng có những dấu hiệu cảnh báo có thể giúp bạn tự nhận dạng loét dạ dày:

- Đau dạ dày âm ỉ, có khi đau như chuột rút, nóng bỏng, quặn thắt ở dạ dày.

- Dạ dày thường đau sau khi ăn, tuy nhiên cũng có thể trở lại nhiều giờ sau đó.

- Đau lúc nửa đêm khi bạn không ăn gì trong nhiều giờ.

- Giảm cân và mất cảm giác ngon miệng.

- Nôn mửa.

Nếu nhận thấy mình có các triệu chứng trên, hãy đến bác sĩ để được điều trị kịp thời, đề phòng các biến chứng (như xuất huyết hoặc thủng dạ dày).

Bệnh loét đường tiêu hóa

Loét đường tiêu hóa là gì?

Loét đường tiêu hóa là sự hình thành một lỗ trên lớp niêm mạc lót bên trong dạ dày, tá tràng hoặc thực quản. Tùy vị trí mà ta có loét dạ dày, loét tá tràng và loét thực quản. Loét xảy ra khi lớp niêm mạc lót bên trong các cơ quan này bị mòn đi bởi dịch tiêu hóa có tính acid do tế bào dạ dày tiết ra.

Loét đường tiêu hóa là một bệnh khá phổ biến, hàng triệu người Mỹ bị bệnh này mỗi năm. Chi phí y tế trong điều trị loét đường tiêu hóa và các biến chứng của nó tốn hàng triệu USD/năm. Các tiến bộ y học gần đây đã giải thích được nhiều về cơ chế hình thành của ổ loét. Ðiều này đã mở ra nhiều chọn lựa trong việc điều trị căn bệnh này.

Các nguyên nhân của loét đường tiêu hóa

Nhiều năm trước đây, người ta tin rằng sự tiết acid quá mức là nguyên nhân chính gây loét. Dựa vào đó, việc điều trị được nhấn mạnh vào sự trung hòa và ngăn chặn sự tiết acid của dạ dày. Hiện nay, các nghiên cứu cho thấy nguyên nhân hàng đầu của bệnh loét là do dạ dày bị nhiễm một loại vi khuẩn có tên "Helicobacter pylori" mặc dù acid vẫn được coi là yếu tố đóng vai trò trực tiếp trong sự hình thành ổ loét.

Một nguyên nhân quan trọng khác gây ra loét đó là việc sử dụng thường xuyên các loại thuốc kháng viêm, thường là thuốc kháng viêm không steroid (NSAID) như aspirin. Hút thuốc cũng là một nguyên nhân quan trọng và dễ gây thất bại trong điều trị.

Vi khuẩn H. pylori rất thường gặp, gây bệnh cho hơn 1 tỉ dân số thế giới. Quá trình nhiễm bệnh thường kéo dài trong nhiều năm và 10% đến 15% số người nhiễm sẽ dẫn đến loét. H. pylori được tìm thấy trên 80% bệnh nhân bị loét dạ dày và tá tràng. Mặc dù cơ chế gây bệnh của H. pylori vẫn chưa được hiểu rõ, sự loại bỏ vi khuẩn này bằng kháng sinh đã cho thấy hiệu quả cao trong việc chữa trị và ngăn ngừa loét tái phát.

NSAID là thuốc dùng điều trị viêm khớp và các tình trạng thương tổn viêm nhiễm khác trong cơ thể. Aspirin, ibuprofen (Motrin), naproxen (Naprosyn) và etodolac (Lodine) là một số thuốc thuộc loại này. Prostaglandin là các chất đóng vai trò quan trọng trong việc giúp niêm mạc ruột chống lại sự làm mòn của acid. NSAIDs gây loét bằng cách ức chế tác động của prostaglandin trong dạ dày.

Hút thuốc không chỉ gây loét mà còn làm gia tăng nguy cơ biến chứng của loét như xuất huyết, tắc nghẽn dạ dày và thủng dạ dày đồng thời cũng là nguyên nhân hàng đầu gây thất bại trong điều trị.

Trái với quan niệm thông thường, rượu, cà phê, cola, thức ăn cay và caffeine chưa được chứng minh vai trò trong sự tạo thành loét. Tương tự, không có bằng xác thực nào cho thấy các stress trong cuộc sống và týp người nào dễ bị các bệnh loét.

Triệu chứng của loét ?

Triệu chứng của loét rất đa dạng. Nhiều bệnh nhân chỉ cảm thấy hơi khó tiêu và khó chịu. Một số người cảm thấy rát bỏng vùng thượng vị hoặc đau (do đói) 1 đến 3 giờ sau bữa ăn và lúc nửa đêm, ợ hơi, ợ chua. Những cơn đau này thường nhanh chóng biến mất khi ăn hoặc uống thuốc trung hòa acid.

Cơn đau của loét liên quan rất ít đến sự hiện diện hoặc mức độ trầm trọng của các ổ loét. Một số bệnh nhân vẫn đau kéo dài ngay cả sau khi đã được điều trị khỏi hoàn toàn. Những bệnh nhân khác có thể không đau ngay cả khi ổ loét tái phát. Các ổ loét có thể xuất hiện và biến mất tự nhiên mà người bệnh không hề hay biết trừ khi một biến chứng trầm trọng xảy ra (như xuất huyết hoặc thủng).

Chẩn đoán loét bằng cách nào?

Việc chẩn đoán có thể được thực hiện bằng chụp X quang cản quang đường tiêu hóa trên với barium hoặc nội soi đường tiêu hóa trên. Chụp X quang cản quang đường tiêu hóa trên với barium dễ thực hiện, ít gây biến chứng và khó chịu. Barium là một chất dạng bột trắng uống qua đường miệng. Barium dễ quan sát và cho thấy đường nét dạ dày trên phim X quang. Tuy nhiên, chụp X quang với barium ít chính xác và 20% trường hợp không phát hiện được loét.

Nội soi đường tiêu hóa trên chính xác hơn nhưng phụ thuộc vào sự chịu đựng của bệnh nhân khi phải luồn một ống dẻo qua miệng vào thực quản, dạ dày và tá tràng để quan sát. Nội soi tiên lợi hơn trong việc có thể lấy ra mẫu mô (sinh thiết) để xét nghiệm xem có nhiễm H. pylori không. Mẩu sinh thiết cũng có thể quan sát dưới kính hiển vi để loại trừ ung thư. Mặc dù thực tế tất cả các ổ loét tá tràng đều lành tính nhưng loét dạ dày đôi khi có thể trở thành ung thư. Do đó sinh thiết thường được thực hiện trong loét dạ dày để loại trừ ung thư.

Các biến chứng của loét ?

Nhìn chung bệnh nhân bị loét vẫn thực hiện các chức năng tiêu hóa tương đối bình thường. Một số ổ loét còn có thể tự lành ngay cả khi không điều trị. Do đó các vấn đề nghiêm trọng của loét chính là các biến chứng. Những biến chứng này bao gồm loét xuất huyết, tắc nghẽn dạ dày và thủng dạ dày.

Bệnh nhân bị loét xuất huyết đi tiêu ra phân màu đen giống bã cà phê, suy kiệt, cảm giác choáng váng khi đứng dậy (tụt huyết áp tư thế đứng) và ói ra máu. Ðiều trị ban đầu là nhanh chóng bù đắp qua đường tĩnh mạch lượng dịch cơ thể bị mất. Bệnh nhân bị chảy máu kéo dài hoặc ồ ạt có thể phải truyền máu. Thực hiện nội soi đường tiêu hóa trên nhằm xác định vị trí chảy máu và cầm máu với dụng cụ để đốt.

Thủng loét làm thoát các thành phần chứa trong dạ dày vào khoang màng bụng dẫn đến viêm phúc mạc cấp (sự nhiễm trùng của khoang màng bụng). Những bệnh nhân này thường đột ngột khởi đau dữ dội ở bụng, đau tăng khi chuyển động, các cơ bụng trở nên cứng "như gỗ", đau cảm giác như "dao đâm". Những trường hợp này phải được phẫu thuật cấp cứu.

Bệnh nhân bị tắc nghẽn dạ dày thường đau tăng ở bụng, ói ra các thức ăn chưa được tiêu hóa hoặc mới được tiêu hóa một phần, chán ăn và sụt cân. Sự tắc nghẽn thường xảy ra gần hang môn vị. Hang môn vị là phần hẹp tự nhiên của dạ dày vì nó nối với phần trên của ruột non là tá tràng. Nội soi rất có ích trong chẩn đoán và loại trừ ung thư vì ung thư cũng có thể là nguyên nhân gây nghẽn tắc.

Ở một số bệnh nhân, tắc nghẽn dạ dày có thể chữa bằng đặt ống thông dạ dày trong 72 giờ, kèm truyền tĩnh mạch thuốc chống loét như : cimetidine (Tagamet) và ranitidine (Zantac). Bệnh nhân bị tắc nghẽn kéo dài đòi hỏi phải phẫu thuật.

Các phương pháp điều trị loét đường tiêu hóa?

Mục đích của điều trị loét là làm hết đau và ngăn chặn các biến chứng như xuất huyết, tắc nghẽn và thủng. Bước đầu tiên luôn là làm giảm các yếu tố nguy cơ (NSAID và hút thuốc). Bước kế tiếp mới là dùng thuốc điều trị.

Thuốc chống acid là trung hòa acid trong dạ dày, một số thuốc thuộc loại này như : Maalox, Mylanta và Amphojel điều trị an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên, tác dụng trung hòa của những loại thuốc này thường ngắn và đòi hỏi uống thuốc thường xuyên. Các chất chống acid như Magie chứa trong Maalox và Mylanta có thể gây tiêu chảy, trong khi nhôm chứa trong Amphojel có thể gây táo bón. Loét thường tái phát khi ngưng sử dụng các loại thuốc này.

Các nghiên cứu cho thấy một loại protein trong dạ dày gọi là histamin có tác dụng kích thích sự tiết acid dạ dày. Các thuốc kháng histamin ( thuốc kháng H2) được tạo ra nhằm ngăn chặn tác động của histamin lên tế bào dạ dày, do đó làm giảm sự tiết acid. Một số thuốc thuộc loại này là: cimetidine (Tagamet), ranitidine (Zantac), nizatidine (Axid) và famotidine (Pepcid). Mặc dù thuốc kháng H2 rất hiệu quả trong việc làm lành vết loét, chúng vẫn chỉ có vai trò rất giới hạn trong tiệt trừ H.pylori nếu không phối hợp với kháng sinh. Do đó, loét thường tái phát khi ngưng sử dụng các thuốc này. Nhìn chung, các loại thuốc này dễ uống và chỉ có ít tác dụng phụ ngay cả khi sử dụng lâu dài. Chỉ một số hiếm trường hợp bệnh nhân bị nhức đầu, choáng váng, hôn mê hoặc ảo giác. Dùng cimetidine dài ngày có thể gây liệt dương hoặc vú to. Cả cimetidine và ranitidine đều ảnh hưởng đến khả năng kiểm soát mức rượu của cơ thể. Những bệnh nhân uống thuốc này và uống rượu có thể có nồng độ rượu trong máu cao hơn. Những thuốc trên cũng có thể ảnh hưởng đến tác dụng của gan với các thuốc khác như: Dilantin, Coumadin và theophylline. Liều lượng thông thường của các loại thuốc này nên được điều chỉnh phù hợp.

Omeprazole (Prilosec) hiệu quả hơn thuốc kháng H2 trong việc ngăn chặn sự tiết acid. Prilosec gần như làm dạ dày ngưng tiết acid hoàn toàn. Mặc dù Prilosec có hiệu quả tương đương với thuốc kháng H2 trong điều trị loét dạ dày và tá tràng nhưng nó có hiệu quả hơn hẳn trong điều trị loét thực quản. Loét thực quản rất nhạy cảm dù với chỉ một lượng nhỏ acid. Do đó tác dụng ngăn chặn hoàn toàn sự tiết acid của Prilosec rất quan trọng trong làm lành loét thực quản. Ðiều thú vị là mặc dù acid hoàn toàn không được tiết ra nó vẫn không hề ảnh hưởng đến sự tiêu hóa và hấp thu thức ăn của bệnh nhân. Prilosec rất dễ uống. Với liều lớn, Prilosec có thể gây những khối u nhỏ trong ruột chuột. Tuy nhiên, chưa phát hiện được trường hợp nào xảy ra trên người ngay cả khi dùng thuốc dài ngày. Thời gian an toàn trong điều trị Prilosec dài ngày vẫn chưa được công bố chắc chắn.

Sucralfate (Carafate) và misoprostol (Cytotec) là những chất làm vững chắc niêm mạc ruột nhằm chống lại sự tấn công của dịch tiêu hóa acid. Carafate bao phủ bề mặt ổ loét và kích thích sự lành. Loại thuốc này có rất ít tác dụng phụ, thường gặp nhất là táo bón và ảnh hưởng đến sự hấp thu các loại thuốc khác. Cytotec là một chất giống prostaglandin thường được dùng để chống lại khả năng gây loét của NSAID. Các nghiên cứu cho rằng Cytotec có thể giúp những bệnh nhân dùng NSAID lâu ngày ngăn chặn loét. Tuy nhiên nó có thể gây tác dụng phụ là tiêu chảy. Cytotec cũng có thể gây sảy thai ở phụ nữ có thai và không nên dùng cho phụ nữ đang trong tuổi sinh đẻ.

Có nhiều người bị nhiễm H. pylori mà vẫn không hề bị thương tổn hay loét. Trong những trường hợp này, việc dùng kháng sinh điều trị chưa cho thấy hiệu quả rõ ràng. Cần phải có nhiều nghiên cứu hơn để trả lời cho câu hỏi này. Những bệnh nhân bị loét và nhiễm H.pylori nên được điều trị kết hợp với kháng sinh. Ðôi khi rất khó trong việc tiêu diệt hoàn toàn H. pylori. Việc điều trị đòi hỏi sự kết hợp của nhiều loại kháng sinh bên cạnh kết hợp với Prilosec, thuốc kháng H2 hoặc Pepto- Bismol. Các kháng sinh thường dùng là: tetracycline, amoxicillin, metronidazole (Flagyl) và clarithromycin (Biaxin). Tiêu diệt H. pylori ngăn ngừa loét tái phát (vấn đề chính của tất cả các phương thức điều trị khác). Sự loại bỏ vi khuẩn này cũng làm giảm nguy cơ tiến triển thành ung thư dạ dày trong tương lai. Ðiều trị bằng kháng sinh có thể gây phản ứng dị ứng, tiêu chảy, và đôi khi gây viêm kết tràng do kháng sinh.

Chưa có bằng chứng thuyết phục nào cho thấy giới hạn chế độ ăn hay chế độ ăn nhạt có vai trò trong lành vết loét. Cũng chưa có sự chứng minh nào về mối quan hệ giữa bệnh loét đường tiêu hóa với lượng cồn hoặc cà phê uống vào. Tuy nhiên, do cà phê kích thích dạ dày tiết acid và cồn có thể gây viêm dạ dày, tốt nhất là nên giới hạn lượng cồn và cà phê uống vào.

Tóm tắt

Với các phương pháp điều trị hiện nay, bệnh nhân bị loét có thể sống bình thường mà không bị thay đổi cách sống hoặc giới hạn trong chế độ ăn. Hút thuốc làm tăng nguy cơ biến chứng của loét và gây thất bại trong điều trị. Diệt trừ hoàn toàn H. pylori không chỉ làm lành vết loét mà còn ngăn chặn loét tái phát.

Những điều cần nhớ về bệnh loét đường tiêu hóa

Loét đường tiêu hóa có thể xảy ra ở dạ dày, tá tràng hoặc thực quản.

Sự tạo thành loét có liên quan đến vi khuẩn H. pylori trong dạ dày, thuốc kháng viêm và hút thuốc.

Ðau do loét có thể không liên quan đến sự hiện diện hoặc mức độ trầm trọng của ổ loét.

Chẩn đoán loét thực hiện với X quang dùng barium hoặc nội soi.

Biến chứng của loét gồm xuất huyết, thủng và tắc nghẽn dạ dày.

Ðiều trị loét nên kết hợp thuốc kháng sinh để diệt trừ H. pylori, loại bỏ các yếu tố nguy cơ và ngăn chặn các biến chứng.

9 câu hỏi thường gặp về bệnh loét dạ dày

Loét dạ dày được coi là căn bệnh của cuộc sống văn minh. Con người càng quay cuồng chạy đua với thời gian, công việc thì bệnh càng phát triển. Hiện cứ 10 người lại có 1 người bị đau dạ dày.

Đa số trường hợp loét dạ dày là do vi khuẩn Helicobacter pylori (HP) gây ra. Vi khuẩn này hiện diện trong 90% bệnh nhân bị loét tá tràng và trong 70% loét dạ dày. Khám phá này đã mang lại giải Nobel cho hai nhà bác học Australia Marshall và Warren.

Thế nào là loét dạ dày?

Dạ dày sử dụng dịch vị để phân mảnh thức ăn. Để bảo vệ thành dạ dày khỏi bị sự tấn công của acid clorhydric trong dịch vị, một màng nhày dày bao phủ bên trong dạ dày. Nhưng khi sự tái sinh các tế bào của màng nhày bị rối loạn, kích thích của dịch vị tạo ra những vết loét đường kính vài milimet. Loét tá tràng diễn ra ở ruột tá, điểm tiếp nối giữa dạ dày và ruột non, chiếm 90%. Loét nằm ở dạ dày có thể dẫn đến các biến chứng trầm trọng.

Nguyên nhân gây loét?

Từ lâu, người ta cho rằng nguồn gốc loét dạ dày là các yếu tố tâm thể. Nhưng ngày nay, người ta biết rằng 99% là do vi khuẩn HP. Sự khám phá này đã tạo nên một cuộc cách mạng trong diều trị loét dạ dày-tá tràng bằng cách tiêu diệt vi khuẩn này.

Tuy nhiên, loét còn có thể do tác động của aspirine dùng thường xuyên hoặc các nhóm thuốc kháng viêm giảm đau không streoid khác. Đây là nhóm thuốc gây độc cho dạ dày và làm giảm cơ chế bảo vệ tự nhiên của màng nhày. Việc dùng các thuốc nhóm này để điều trị đau sẽ góp phần làm tăng tình trạng loét.

Các triệu chứng loét biểu hiện như thế nào?

Loét kéo theo những cơn đau như chuột rút, nóng bỏng, quặn thắt ở dạ dày. Cơn đau xuất hiện khoảng 4 giờ sau bữa ăn và có thể kéo dài tới bữa ăn kế tiếp. Bên cạnh đó còn có thể có các triệu chứng phối hợp như: buồn nôn, nôn, rối loạn tiêu hóa. Việc cung cấp thức ăn vào dạ dày thường giúp giảm đau. Các triệu chứng kéo dài vài ngày rồi trở nên đau theo định kỳ.

Khi nào đi bác sĩ ?

Nếu cơn đau không thể giảm khi dùng các thuốc giảm đau bao tử không cần kê toa, nếu tái xuất hiện nhiều lần trong ngày đêm thì nên đi khám để được điều trị sớm và hiệu quả.

Đâu là những yếu tố làm nặng chứng loét dạ dày ?

Có nhiều yếu tố làm tăng nặng vết loét dù không phải là nguyên gây ra loét, đó là nghiện thuốc lá, nghiện rượu, dùng nhiều cà phê, bị stress thường xuyên, dùng các thuốc giảm đau không steroid và các thuốc corticoid.

Cần từ bỏ các yếu tố trên một khi đã chẩn đoán bị loét. Cần theo một chế độ ăn uống cân bằng, sử dụng nhiều rau quả để cung cấp chất xơ (sợi), tránh các đồ chiên xào quá nhiều mỡ hoặc gia vị. Cần dành thời gian cho việc ăn uống; những bữa ăn vội vã sẽ làm cho dịch vị tiết ra nhiều gây đau cho vết loét.

Chẩn đoán loét dạ dày như thế nào?

Việc chẩn đoán cần đến kỹ thuật chụp fibroscopie dạ dày để thấy rõ vết loét và lấy sinh thiết các mảnh màng nhày. Bệnh nhân không thoải mái lắm với phương pháp này nên có thể trắc nghiệm gián tiếp bằng cách dùng test qua đường hô hấp.

Điều trị ra sao?

Cơ bản nhất vẫn là dùng thuốc tác dụng cùng lúc làm giảm tiết dịch vị và kháng sinh để tiêu diệt HP. Hai nhóm dược phẩm thường được sử dụng:

- Chống tăng tiết để ngăn chặn sự sản xuất acid chlorhydric và làm liền các tổn thương màng nhày: đó là chất ngăn chặn pompe proton thường được dùng từ 4-6 tuần.

- Các kháng sinh để tiệt trừ HP thường là amoxicillin và clarithromycin trong ít nhất là một tuần. Trong vài ngày, các triệu chứng biến mất nhưng không nên ngưng điều trị vì bệnh dễ tái phát cùng với chủng HP đã đề kháng với liều điều trị và kháng sinh cũ.

Khi nào cần đến phẫu thuật?

Với sự tiến bộ trong liệu pháp điều trị, chỉ định phẫu thuật ngày càng ít. Tuy nhiên, trong trường hợp xuất huyết dạ dày, bác sĩ phẫu thuật sẽ phải khâu lại các mạch máu hoặc khâu lại vết loét.

Trong loét dạ dày, điều gây lo ngại là sự phát triển thành ung thư. Sau nhiều lần tái đi tái lại không được điều trị đúng mức hoặc trong trường hợp nghi ngờ tình trạng của vét loét, bác sĩ phẫu tuật có thể lấy đi một phần dạ dày nơi có vết loét rồi tùy tình hình, có thể đồng thời cắt dây thần kinh phế vị để giảm tình trạng tiết ra acid chlorhydric.

Biến chứng gồm những gì?

Nếu không được điều trị, vết loét có thể phát triển các biến chứng như xuất huyết dạ dày hoặc thủng dạ dày. Xuất huyết có thể được nhận biết ở tình trạng nôn ra máu (màu đỏ hoặc đen) hoặc có máu đen trong phân. Tình trạng xuất huyết cho thấy mức trầm trọng các mạch máu bị tổn thương.

Thủng bao tử thường kèm theo đau dữ dội ở bụng, cần phải thăm khám khẩn cấp. Chúng thường kéo theo viêm màng bụng. Bệnh nhân cần được nhập viện và can thiệp bằng phẫu thuật. Có bệnh nhân không đau dữ dội nhưng vẫn bị xuất huyết.