NewYork Paris Hà Nội Khách thứ :

NIỀM TIN TƯƠNG LAI

     

Những thành tựu nổi bật của nền nông nghiệp Israel ( Do Thái )

Đại sứ Israel tại Việt Nam Effie Ben - Matityan mở đầu cuộc trò chuyện với TS về nền nông nghiệp, đặc biệt về các nhà khoa học nông nghiệp của Israel bằng việc giới thiệu khái quát những thành tựu nổi bật của nền nông nghiệp Israel.

Israel chỉ rộng bằng 1/58 Việt Nam, mật độ dân số thuộc hàng đông nhất thế giới. Nhưng chỉ với 2,5% dân số làm nông nghiệp, Israel không những bảo đảm đủ nhu cầu lương thực mà còn xuất khẩu tới 3 tỉ USD nông sản. Có được điều này là nhờ năng suất nông nghiệp của Israel rất cao, xin đưa ra những con số dễ hình dung: Năm 1950, một nông dân Israel cung cấp thực phẩm đủ cho 17 người, còn ngày nay là 90 người. Một hecta đất của Israel hiện cho 3 triệu bông hồng, hay 500 tấn cà chua/vụ; đặc biệt, một con bò của Israel cho tới 11 tấn sữa/năm - đây là năng suất mà không một nước nào trên thế giới có được. Tất nhiên, chìa khóa thành công của nông nghiệp Israel chính là công nghệ (know - how).

Do đâu các nhà nghiên cứu nông nghiệp Israel thành công đến vậy ?

Nhờ nước Israel rất nhỏ , đồng ruộng san sát, vì thế các nhà nghiên cứu nông nghiệp Israel rất gần gũi với đồng ruộng. Từ viện nghiên cứu hay trường đại học, họ có thể "đi vèo" tới các cánh đồng. Không bao giờ các nhà nghiên cứu nông nghiệp Israel có thái độ kẻ cả khi tới ruộng. Do gần gũi với nông dân, hoặc chính gia đình mình là nông dân nên các nhà nghiên cứu nông nghiệp giải quyết các vấn đề của đồng ruộng với tư cách bạn bè. Mặt khác, sức ép thiếu đất và nước rất đắt khiến các nhà nghiên cứu nông nghiệp phải bằng mọi cách đẩy năng suất lên cao nhất. Israel là nước phát minh ra hệ thống tưới nhỏ giọt (dip irrigation) điều khiển bằng máy tính, không một giọt nước bị bỏ phí. Trình độ nông dân của Israel cũng rất cao, tất cả họ đều đã học xong trung học; nhiều người sau khi học xong đại học đã quay lại đồng ruộng, sau đó lại mang kinh nghiệm đồng áng của mình tới trường đại học.

Thường các nhà nghiên cứu nông nghiệp Israel làm việc cho nhà nước hay tư nhân ?

Phần lớn các nhà khoa học nông nghiệp của chúng tôi làm cho nhà nước. Có tới hơn 60% các công trình nghiên cứu nông nghiệp là của Cơ quan Nghiên cứu Nông nghiệp (ARO) hay Trung tâm Volcani thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. ARO có 7 viện nghiên cứu con: Viện Rau, Viện Thu hoạch, Viện Vật nuôi, Viện Khoa học Đất-Nước và Môi trường, Viện Bảo vệ Thực vật, Viện Sau thu hoạch và Viện Cơ khí nông nghiệp. Khoa Nông nghiệp của các trường Đại học Hebrew, Đại học Tel Aviv... cũng có chức năng nghiên cứu nông nghiệp. Mỗi năm Israel chi khoảng 90 triệu USD cho nghiên cứu nông nghiệp, trong đó khu vực tư nhân chi khoảng 20 triệu USD.

Vậy đâu là động lực của các nhà nghiên cứu nông nghiệp Israel ?

Câu hỏi rất thú vị ! Các công ty tư nhân thường trả lương rất cao nên nhà nước cũng phải trả lương cao để giữ chân các nhà nghiên cứu. Nhưng dù các công ty tư nhân trả lương cao hơn, các nhà khoa học vẫn thích làm cho nhà nước, vì nhà nước cho họ điều kiện nghiên cứu tốt hơn. Họ làm việc không hoàn toàn vì tiền, mà trước hết vì khoa học. Ngoài ra, họ cũng có thể đi tư vấn cho các nông trại.

Sự khác biệt của các nhà nghiên cứu nông nghiệp Israel so với đồng nghiệp ở các nước có nền nông nghiệp phát triển khác, như Mỹ, Hà Lan... là gì ?

Điều này rất khó nói, có thể đó là khác biệt về tâm lí và địa lí. Các nhà nghiên cứu nông nghiệp của Mỹ, Đức, Hà Lan, Trung Quốc... cũng rất giỏi, nhưng có khi vì đất nước của họ quá rộng nên họ bị xa cách với đồng ruộng; cũng có khi vì khí hậu đồng nhất nên họ không thể giải quyết được một lúc nhiều vấn đề. Israel thì ngược lại. Nước chúng tôi nhỏ nhưng địa hình rất phức tạp: có đồng bằng, có núi, có sa mạc, thời tiết cũng rất đa dạng, vì thế các nhà nghiên cứu nông nghiệp Israel phải rất linh hoạt trong tư duy để có thể giải quyết được những vấn đề phức tạp, áp dụng được ở nhiều nơi khác nhau. Mặt khác, như tôi đã nói, các nhà nghiên cứu nông nghiệp Israel không xa cách với nông dân, đặc biệt, luôn coi trọng những kinh nghiệm trong sản xuất của họ.

Mô hình nông nghiệp Israel liệu có thể áp dụng cho Việt Nam ?

Theo tôi, vấn đề chính của nông nghiệp Việt Nam là bắt kịp khoa học tiên tiến. Nông nghiệp cũng là một loại công nghiệp. Lấy ví dụ ngay việc nuôi bò, vấn đề không phải là nuôi năm ba con, để nó tùy ý đi lại, thỉnh thoảng lại ăn một chút cỏ, mà nên xem nó như một chiếc... ô tô. Phải có "đầu vào" tốt, cung cấp đủ lượng protein, tạo độ ẩm và nhiệt độ thích hợp, giữ nền chuồng sạch sẽ, thậm chí phải cho... ngủ đủ, "đầu ra" mới có nhiều sữa. Nhờ các nhà kính, hệ thống tưới tiêu có điều khiển, kĩ thuật chọn giống, tiến bộ sinh học... nông nghiệp hiện đại ngày càng ít phụ thuộc vào môi trường. Trình độ của các nhà nghiên cứu nông nghiệp của Việt Nam rất tốt, tuy nhiên nền nông nghiệp của các bạn vẫn lạc hậu, còn rất nhiều thách thức phải vượt qua.

Effie Ben Matityau - Đại sứ Israel tại Việt Nam : Công nghệ cao - thế mạnh hàng đầu của chúng tôi

Xin Ngài cho biết nét nổi bật nhất trong hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực khoa học và công nghệ thời gian qua.

Hợp tác về công nghệ giữa Việt Nam và Israel gần đây đang được triển khai ở nhiều lĩnh vực, trong đó nổi bật nhất là lĩnh vực viễn thông. Các công ty hàng đầu của Israel như RAD, ECI, Comverse và Alvarion đang có những dự án hợp tác rất hiệu quả với đối tác Việt Nam và hầu hết các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông lớn của Việt Nam như VNPT, Viettel, EVN đều có sử dụng công nghệ của Israel.

Theo Ngài, đáng lưu ý nhất trong lĩnh vực hợp tác đó là gì?

Chúng tôi không chỉ bán công nghệ, thiết bị mà thường xuyên phối hợp tổ chức các khóa học về viễn thông. Tháng 11/2006, trong dịp một phái đoàn của Bộ Truyền thông – Thông tin (lúc đó là Bộ Bưu chính Viễn thông) có sang thăm Israel. Trong dịp đó, đã có 40 chuyên gia viễn thông của Việt Nam tham dự một khóa học của Israel về chuyên môn. Sau này, các khóa học tương tự vẫn thường xuyên được tổ chức. Các khóa học này thường kéo dài từ một đến ba tháng. Hiện tại chúng tôi đang xây dựng chương trình các khóa học dài hơn (1 năm). Cuối tháng 5 này, Israel sẽ đón một đoàn doanh nghiệp viễn thông của Việt Nam sang thăm và làm việc trao đổi kinh nghiệm về việc quản lý vệ tinh viễn thông, phục vụ cho việc khai thác, sử dụng vệ tinh VINASAT-1. Đầu tháng 6 tới, chúng tôi sẽ mở ra một ngày công nghệ di động Israel tại Việt Nam, do hiệp hội công nghệ di động Israel tổ chức.

Theo tôi biết nông nghiệp cũng là một lĩnh vực quan trọng trong hợp tác giữa hai nước, với nhiều dự án khu công nghệ cao về nông nghiệp ở các địa phương. Ngài có thể cho biết đôi điều về sự hợp tác này.

Trong thời gian vừa qua, ngày càng có nhiều địa phương làm việc trực tiếp với các doanh nghiệp Israel và thấy rằng công nghệ Israel có nhiều thế mạnh, phù hợp với bối cảnh của Việt Nam. Như các bạn đã biết, thiên nhiên không dành cho đất nước chúng tôi nhiều ưu đãi, nhất là về nguồn nước. Điều đó đã thúc đẩy chúng tôi phải thực hiện các một loạt các bài toán giải quyết vấn đề nước cho nông nghiệp. Một công nghệ đang được triển khai ở Việt Nam là phương pháp tưới nhỏ giọt. Với phương pháp này, nước thấm sâu vào đất nên giảm được đáng kể lượng tiêu hao do bốc hơi. Việc tưới tiêu hoàn toàn có thể được điều khiển, do vậy hiệu suất sử dụng nước được tăng lên và đảm bảo đúng chế độ nước của đất theo nhu cầu của từng giống cây trồng. Hiện nay, Việt Nam có nguồn nước dồi dào, nhưng không lâu nữa, tài nguyên này sẽ trở nên khan hiếm. Phương pháp tưới nhỏ giọt sẽ giúp Việt Nam tiết kiệm được nhiều nước so với phương pháp tưới rãnh và tưới phun truyền thống.

Ngoài công nghệ tiết kiệm nước, chúng tôi còn đang hướng tới việc xây dựng những mô hình trạng trại nuôi bò sữa sử dụng công nghệ Israel ở Hà Nội, Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là những mô hình trang trại hiện đại, trị giá của mỗi dự án như thế này dự tính lên tới 2 triệu USD. Ở mỗi trang trại như vậy, ngoài những trang thiết bị hiện đại, người chăn nuôi còn được cung cấp các công cụ quản lý bằng máy tính nhằm mục đích liên tục ghi chép dữ liệu về đàn gia súc để từ đó kiểm soát quy trình chăm sóc, phòng bệnh cho gia súc nhằm tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao với chi phí thấp và lượng nhân công tối thiểu.

Nhưng vì sao hiệu quả của sự hợp tác trong nông nghiệp vẫn chưa đạt được mong muốn của cả hai bên ?

Chúng tôi nhận thấy là việc làm cho ai đó thích nghi với công nghệ mới và thay đổi thói quen sản xuất cần thì phải có thời gian. Vì vậy chúng ta cần phải kiên nhẫn hơn. Ở Israel, chúng tôi có lợi thế là có một nguồn nhân lực có trình độ cao làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Đa phần những người làm trong nông nghiệp của Israel có trình độ trên phổ thông hoặc tốt nghiệp đại học. Vì vậy quan hệ giữa người nông dân với các chuyên gia nông nghiệp không có khoảng cách lớn, trình độ có thể nói là tương đương. Sự trao đổi giữa người trực tiếp làm công việc đồng áng với chuyên gia nông nghiệp diễn ra thường xuyên. Mỗi khi các trung tâm nghiên cứu đề ra những công nghệ mới, những người nông dân với nền tảng kiến thức tốt lại được cung cấp đầy đủ thông tin sẽ tự đánh giá và chủ động lựa chọn công nghệ hoặc các sản phẩm phù hợp với thị trường. Như tôi được biết, người nông dân ngày càng có kiến thức cao, cái mà anh ta sản xuất ngày càng nhiều hơn, tốt hơn, anh ta ngày càng giàu hơn.

Ngoài ra, Việt Nam cần chú trọng đầu tư vào nguồn cán bộ nông nghiệp, sử dụng họ như cầu nối giữa người nông dân với công nghệ, và các cán bộ nông nghiệp cần gắn bó với nông dân và đồng ruộng hơn nữa.

Phải chăng còn một lý do nữa là công nghệ Israel giá thành đắt và các doanh nghiệp Israel không quen cách “lobby” như các đối tác đến từ Đông Á

Theo tôi, không phải “lobby” mà chính là chất lượng sản phẩm sẽ quyết định sự thành công của hợp tác. Đúng là các sản phẩm của Israel không hẳn là rẻ nhưng bù lại chất lượng rất tốt. Hơn nữa, Israel rất giỏi đáp ứng nhu cầu cụ thể, chi tiết của từng đối tượng khách hàng để phát triển công nghệ, sản phẩm tương ứng. Đấy là khó khăn nhưng tôi nghĩ đó không phải là vấn đề lớn. Tôi hy vọng dần dần người Việt Nam sẽ quan tâm đến chất lượng thực sự của sản phẩm hơn là những thương hiệu quen thuộc và biết đến các sản phẩm của Israel nhiều hơn qua các chương trình giới thiệu. Đấy là một trong lý do tại sao chúng tôi đang tích cực tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu về Israel ở Việt Nam.

Tôi được biết, Ngài giành rất nhiều thời gian đến các địa phương, các dự án hợp tác giữa hai nước tìm hiểu công việc, điều không phải dễ gặp ở các nhà ngoại giao khác ?

Tôi nghĩ, việc đó là hết sức cần thiết. Để người Việt Nam có cái nhìn toàn diện về đất nước và con người Israel, chúng tôi phải tích cực tạo ra những dịp, những cơ hội tiếp xúc trực tiếp giữa người Israel và người Việt Nam. Với cương vị của một nhà ngoại giao, tôi phải hoàn thành sứ mệnh của mình, làm một cầu nối tình bằng hữu giữa nhân dân hai nước.

Xin cảm ơn Ngài đã dành thời gian cho cuộc trao đổi và xin chúc mừng Ngài nhân dịp 60 năm Quốc Khánh Israel.

Tuấn Linh