NewYork Paris Hà Nội Khách thứ :

NIỀM TIN TƯƠNG LAI

     

Hiểm họa ô nhiễm độc tố trong thực phẩm - Hồng Lê Thọ , Kiều bào Nhật Bản

Đối với các cơ sở nước tương vi phạm Vệ Sinh An Toàn Thực Phẩm … biện pháp đầu tiên là phải đóng cửa nơi sản xuất chứ không chỉ tập trung vào việc thu hồi sản phẩm hay phạt hành chính…

Ông Đỗ tất thắng ( Phó chủ tịch Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam ).

Trách nhiệm thuộc về ai ?

Chưa có lúc nào người nội trợ phải lo lắng và lúng túng trước nạn ô nhiễm độc chất trong rau quả, thịt cá, các loại hàng chế biến phổ biến trong đời sống hàng ngày như sự kiện nước tương “đen” hay nước mắm chứa tạp chất, thuốc trừ sâu đã trở thành vấn đề nghiêm trọng trong mấy tháng qua. Hầu hết đều bối rối và bị động vì chỉ được biết sau khi đội (đoàn) thanh tra, phòng dịch phát hiện và công bố kết quả kiểm nghiệm trên phương tiện thông tin đại chúng quá muộn màng (6 năm sau !), không ngăn chận hay “phòng dịch” trước khi việc ngộ độc thực phẩm đã xảy ra. Nếu việc nhiễm độc đến tức thời, gây thương vong ngay thì người dân còn có thể biết nhưng nếu đó là những độc tố gây suy thận, viêm gan, hoại tủy, teo cơ… có thể dẫn đến tai biến, gây nên các chứng ung thư cho người tiêu dùng , len lõi vào hệ miễn dịch,di truyền cho nhiều thế hệ tiếp nối thì trách nhiệm thuộc về ai, chi phí chữa và nuôi bệnh sẽ là những gánh nặng khủng khiếp lên gia đình người bị phơi nhiễm. Không ai có thể né tránh vì chất độc trong lương thực ngày càng bị lạm dụng đến mức tối đa, các cơ quan chức năng về vệ sinh thực phẩm,thị trường, y tế… luôn bị bó tay trước nạn chồng chéo của bộ máy quản lý, và cuối cùng chỉ cần một lời xin lỗi hay đổ tội cho cơ chế hoặc khôn ngoan vin vào lý do “khoa học” chưa xác minh(!) để tránh né trách nhiệm và sự phê phán của công luận. Đã có 11 cơ quan nhảy vào cuộc trong sự kiện nước tương có 3-MCPD nhưng rồi… mọi việc vẫn trở về nơi xuất phát, một lời “xin lỗi”của Giám đốc Sở Y tế TPHCM là xem như “kết thúc” trong khi nước tương đen là một mặt hàng đang có mặt khắp nơi trên cả nước.

Ô nhiễm vi khuẩn, vi sinh và độc chất “nội ngoại” khắp nơi

Rau muống nhiễm thuốc trừ sâu, kí sinh gây bệnh đường ruột,thương hàn có mặt khắp các chợ, thực phẩm đông lạnh với dư lượng kháng sinh, hàng chế biến thì tràn lan thuốc nhuộm, phẩm màu, hóa chất tạo màu mùi và có cả các loại hóa chất bảo quản độc hại nói chi đến Gạo là lương thực cơ bản đã nhiễm các loại thuốc như Semicarbazide, Acetamipri… được sử dụng để chống nấm mốc, sâu mọt mà cơ quan kiểm dịch Nhật bản đã phát hiện trong gạo nhập từ nước ta?

Việc kiểm tra, kiểm soát các loại hàng thực phẩm nhập khẩu từ Trung quốc, Thái lan thậm chí từ các nước phát triển còn bỏ ngõ, phó mặc cho người tiêu dùng trong khi nạn lạm dụng hóa chất tẩy trắng, bảo quản… đang được các cơ quan kiểm dịch nước ngoài lên tiếng cảnh báo, cương quyết loại trừ chúng ra khỏi thị trường nội địa. Không khó khăn gì trong việc tìm kiếm các loại bột nêm, gia vị, tạo ngọt nồng độ cao của Trung quốc trên thị trường Việt nam, chỉ cần 1 gói bột lẫu Thái hay Trung quốc có giá từ 3.000 - 6.000 đồng là có thể có một lượng nước dùng cho vài chục tô , rất được các tiệm , xe bán hủ tiếu, phở, mì Gõ… ưa chuộng (thay vì phải dùng xương) hay các loại bột tổng hợp để sát trùng, bảo quản rau củ quả, trái cây lâu ngày…được sử dụng khá phổ biến ở các đại lý, cửa hàng trái cây. Kết quả kiểm tra sơ bộ đã cho thấy độ nhiễm bẩn hầu hết ở các loại thịt tươi sống 90-100% không kể hàn the, formol, muối diêm có trong thực phẩm chế biến như giò, chả bánh phở, mì sợi, bún… rất phổ biến. Trung tâm y tế dự phòng TPHCM cho biết 94% không đạt chỉ tiêu vi sinh, chỉ tiêu hóa lý là 47% trong đợt kiểm tra năm 2005, đồng thời cảnh báo thực phẩm chế biến ăn ngay có tỷ lệ nhiễm vi sinh vật cao gấp 3 - 4 lần mẫu thực phẩm có bao gói sẵn !

Trong đợt kiểm tra 6 tháng đầu năm 2007, rau có độc tố tại chợ đầu mối là 71/2060 ( 3,43% ) mẫu, trong khi mẫu rau ở siêu thị nội thành chiếm 4,81% ( 65/905 mẫu ), 57/90 mẫu thịt ở lò giết mổ có vi sinh, khuẩn gây bệnh như E.Coli, S.Aureus, Samonella và 21/90 mẫu không đạt chỉ tiêu về tồn dư kháng sinh,kim loại nặng và hóa chất bảo vệ thực vật(phân xanh,thuốc trừ sâu gốc Chlor hữu cơ…), đã có 633/2.293 cơ sở vi phạm Vệ sinh an toàn thực phẩm và cả nước là 3000 cơ sở vi phạm.

Điều tra của TS Bùi Cách Tuyên, nguyên hiệu trưởng Đại học Nông Lâm TPHCM cho biết nhân dân thành phố đang tiêu thụ các loại rau thủy sinh có hàm lượng độc tố ghê gớm như hàm lượng Kẽm trồng rau muống ở huyện Bình Chánh cao hơn mức cho phép 30 lần, ao rau nhút ở phường Thạnh Xuân quận 12 có hàm lượng Chì gấp 35 lần, Sen ở Đông Thạnh(Hóc Môn)có hàm lượng Chì gấp 14 lần… nghĩa là diện điều tra mở rộng tới đâu thì phát hiện mức độ ô nhiễm độc tố “lan” nhanh tới đó. Một số hộ nông dân trồng rau ngoại thành thành phố HCM xem việc phun thuốc trừ sâu và cả thuốc diệt cỏ 2,4 D (có khả năng gây ung thư gan, lá lách…) để ngâm rau muống , giữ gìn độ xanh, bắt mắt của rau , cho biết loại thuốc diệt cỏ ( cấm sử dụng ) nầy được các công ty bán kèm với thuốc bảo về thực vật khác !

Thứ trưởng Bùi bá Bổng bộ NN-PTNT thừa nhận “thực phẩm ô nhiễm vi sinh vật và tồn dư hóa chất độc hại đang là vấn đề tồn tại lớn” nhưng hiện nay vẫn còn nhiều lúng túng chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chận mặc dù vấn đề nầy đã được quốc hội quan tâm.

Đến bao giờ người nội trợ được yên tâm nuôi dưỡng con cái,gia đình mình bằng những thực phẩm bỗ dưỡng, trong “lành” như hằng mong đợi. Câu hỏi vẫn còn ở phía trước.

Thói quen sử dụng chất kích thích, hormone tăng trọng

Đáng lo ngại nhất là hiện tượng các nhà sản xuất thức ăn gia súc gia cầm sử dụng thức ăn có hàm lượng kích thích tố tăng trưởng như Dexamethasone (giữ nước, muối, gây tụ mỡ), testoterone (trong thịt heo), hormone tăng trọng nguy hiểm như Clenbutyrol (tăng tỷ lệ nạc, giảm mỡ cho heo, bò), Estradiol (Gà, kháng sinh,tăng trọng), hormone tổng hợp nguy hiểm Diethylstilestrol (gây ung thư)… phát tán khắp nơi bên cạnh các loại thịt nhiễm bệnh, lở mồm long móng được bày bán ở các quầy nhỏ lẻ góc phố hoặc cung cấp cho các quán phở, mì, cháo… hàng rong mà đối tượng chính là trẻ em và học trò các trường trung tiểu học ở thành thị cũng như nông thôn..

Khuynh hướng nầy ngày càng tăng thông qua số ngộ độc thực phẩm càng nhiều, rõ rệt hơn trong năm 2007 và càng có qui mô lớn hơn vì bếp ăn tập thể hay công ty chế biến cung cấp cho những khu công nghiệp không đảm bảo vệ sinh chất lượng như vụ 200 công nhân ngộ độc thực phẩm ở TpHCM trong tháng 6/2007. Điều đáng lo ngại là những loại kích thích tăng trưởng, tăng trọng như Dexamethasone có hầu hết trong các loại thịt ( gà,bò,heo… ) tươi sống và thức ăn gia súc cho thấy việc lạm dụng ngày càng phổ biến, trở thành một thói quen hay “bí quyết” thần dược để rút ngắn thời gian và chi phí vỗ béo. Chỉ riêng Dexamethasone là hóa chất Corticoid có tác dụng kháng viêm nếu sử dụng lâu dài sẽ dẫn đến việc tích lũy trong cơ thể con người gây xáo trộn nội tiết của tuyến thượng thận,hại thần kinh,gây kích động,làm cho cơ thế béo phì, tăng huyết áp hay các chứng bệnh mãn tính về xương và cơ. Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp cảnh báo “75% mẫu thịt và 70% mẫu gan của gia súc gia cầm có mức tồn dư các chất kích thích tăng trưởng và kháng sinh như hiện nay vượt ngưỡng cho phép sẽ gây ngộ độc mãn tính”. Thật vậy, vấn để sử dụng các loại kháng sinh cũng như Hormone kích thích nầy đã được sử dụng hơn 20 năm nay trong ngành chăn nuôi gia súc gia cầm, trở thành một thói quen không thể thiếu để trục lợi. Theo báo cáo của Trung tâm dịch vụ phân tích thí nghiệm Sài gòn thì trong những năm 1999-2000 số lượng mẫu thịt gà , heo, thức ăn gia súc có hàm lượng Dexamethasone vượt chuẩn là 80 — 99 % chứng tỏ từ lâu người tiêu dùng đã bị phơi nhiễm độc tố mà không hề hay biết. Hơn thế nữa gần đây người ta còn phát hiện các loại “thần dược” mới có xuất xứ Trung quốc như “Bạch Nhật Đại”,”Khai Vị”, “Tăng gia phức đại” (không rõ thành phần hóa chất) với giá rẻ 3.000 - 6.000 đồng/gói… hay hốn hợp tăng trọng, tỷ lệ sinh sản cao bất bình thường pha trộn hóa chất cấm vào thức ăn gia súc.

Hơn thế nữa, việc sử dụng chất Clenbuterol –hormone tăng trưởng bị cấm—đang được sử dụng tràn lan, trong 500 mẫu thịt lợn tại TPHCM có 30% mẫu dương tính trong cuộc điều tra của Chi cục thú y thành phố năm 2005, lượng hóa chất nầy tồn dư 100% trong cơ thế động vật, 60% tồn lưu trong Gan, Thận ngay cả khi nấu chín hay chiên và đây là nguồn gây ung thư, run cơ, suy tim… hiện nay vẫn ngang nhiên có mặt trên thị trường . Đáng ngạc nhiên là ngay trong sản phẩm thức ăn gia súc của một số công ty nổi tiếng trong nước vẫn tìm cách pha loại “thần dược”nầy vào hoặc khôn ngoan hơn là gói sẵn trong một bao bì riêng và hướng dẫn cho các hộ chăn nuôi tự pha chế để trốn tránh trách nhiệm lẫn kiểm tra của cơ quan chức năng…và đã làm phá sản những nông dân tại tỉnh Đồng Nai khi mặt hàng chăn nuôi của họ bị cơ quan thú y phát hiện phơi nhiễm Clenbutyrol, Salbutamol từ thức ăn gia súc của công ty Uni-PresidentVN (Bình Dương). Đây chỉ là một trong nhiều trường hợp của các công ty sản xuất và mua bán thức ăn gia súc đã xảy ra gần đây ở các tỉnh phía Nam.

Tại thị trường miền Bắc người ta còn phát hiện một số thuốc kháng sinh trị bệnh được dùng để kích thích tăng trọng khác như Tetracycline, Neomycine, Zine, Bactacin… khuyến cáo chỉ được dùng cho gia súc từ 14 - 42 ngày trước khi giết mổ nhưng trên thực tế thì các hộ vẫn sử dụng tận đến giờ xuất chuồng, và khi chữa bệnh kháng sinh liều cao vẫn không khỏi, gia súc bị chết thì họ trà trộn chung với thịt gia súc khỏe mạnh để tiêu thụ!.

Đặt lại vấn đề Vệ sinh an toàn thực phẩm từ gốc

Những con số cũng như tình trạng ô nhiễm độc tố không còn là hiện tượng đặc thù mà đã trở thành một nạn đại dịch trong đời sống hằng ngày của nhân dân, việc tăng cường biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cần phải được hệ thống hóa thành một cơ chế quản lý nghiêm khắt với khung hình phạt thỏa đáng không chỉ để răn đe như từ trước đến nay mà nhằm mục đich triệt hạ mối nguy hiểm gây tai họa cho bao người. Hiện tượng trẻ nít, người lớn béo phì bất thường, mang các chứng bệnh ung thư ( Báo cáo của Bộ Y tế cho biết tại nước ta số người chết vì ung thư đã lên đến 200.000 người/năm trong đó 150.000 ca tử vong và 35% là ung thư do thực phẩm độc hại gây nên ) hay hiện tương vô sinh, tỷ lệ tinh trùng giảm trong nam giới là những hậu quả tai hại từ những độc tố mà các nước phát triển đã trãi qua. Những dị biến hay đột biến trong tế bào con người do hóa chất độc hại gây nên đã được các nhà khoa học lên tiếng từ hơn 10 năm nay khi xét nghiệm cơ thể của con người ngày nay hấp thụ và tích lũy quá nhiều độc tố hóa chất mang tình hủy diệt lâu dài do chính cuộc sống “văn minh” tạo ra.

Chạy theo lợi nhuận bất kể sức khỏe của người tiêu dùng là một tội ác có tổ chức, hành động giết người cần phải có qui định chế tài đích đáng chứ không thể dừng lại ở mức phạt hành chính hay tạm đóng cửa để “chấn chỉnh” và lấy cớ “quá ít cán bộ kiểm dịch” hay “không đủ phương tiện”… để lẫn tránh trách nhiệm của người quản lý. Đã đến lúc cần phải có một bộ luật hoàn chỉnh về An toàn Lương thực, thực phẩm cũng như qui chế thanh, kiểm tra, không chế việc mua-bán sử dụng trái phép mọi loại hóa chất độc hại một cách có hệ thống. Điều nầy sẽ tiết giảm được chi phí phòng-chữa bệnh ngày càng tăng trong đời sống nhân dân, bảo vệ sức khỏe của toàn dân trước hiểm họa ô nhiễm trầm trọng hiện nay. Bộ máy kiểm dịch và thanh tra một cách cơ động, quyết liệt việc mua bán, sử dụng hóa chất cấm dùng trong thực phẩm là một đòi hỏi bức thiết, ngăn chận kịp thời việc nhập lậu các loại “thần dược”từ biên giới là một trong những việc “cần làm ngay”.

Phải chăng đây là những điều kiện cơ bản để cải thiện chất lượng “sống” của nhân dân trong quá trình phát triển, không thể chấp nhận nền kinh tế tăng trưởng nhanh và hệ quả của nó lại là ô nhiễm độc tố tràn lan trong môi trường và bữa cơm gia đình ngày càng không “sạch” một cách tệ hại?.

Một số dư lượng thuốc trừ sâu, diệt nấm, kim loại nặng trên rau quả vượt mức cho phép.

- Chất độc gốc tự nhiên: Tetrodotoxin trong một số thủy sản như cá nóc, mực xanh..., glycozit cyanogen trong một số thực phẩm như măng, khoai mì, độc tố sinh học biển ASP, DSP, PSP trong nhuyễn thể 2 mảnh vỏ.

Chất độc sinh ra trong quá trình bảo quản không tốt:

- Ochratoxin trong cà phê.

- Histamin trong hải sản.

Chất độc thải ra từ các bao bì: Phtalat hóa dẻo.

Chất độc sinh ra trong quá trình chế biến, nấu nướng:

- 3-MCPD và 1,3 – DCP trong nước tương(chất gây ung thư).

- Acrylamid trong chiên, xào, nướng.

Chất độc sinh ra từ công thức pha chế:

Benzen sinh ra từ các loại nước ngọt, nước tăng lực có đồng thời vitamin C và muối Benzoat hiện diện.

Chất độc gốc môi trường: Kim loại nặng(Chì,Mangan,Thủy ngân…), PCB,Dioxin.

Người tiêu dùng hãy “tuyên chiến” một cách quyết liệt hơn

Không phòng chống theo phong trào

Tình trạng ô nhiễm độc tố đã lan tràn khắp mọi thức ăn, nước uống, rau quả…trong đời sống nhân dân như các cơ quan truyền thông cũng như vệ sinh phòng dịch thông báo suốt cả mấy tháng nay. Các Cơ quan quản lý và có chức năng về thị trường, hải quan,vệ sinh an toần thực phẩm, an ninh kinh tế, y tế…đã có “chiến dịch” phối hợp nhằm ngăn chận, các nhà khoa học cũng liên tục lên tiếng về hiểm họa thực phẩm, nước tương “đen” hiện nay.

Thực tế cho thấy càng kiểm tra, kiểm soát đến đâu thì phát hiện “vấn nạn” nhiễm độc “lan” đến đó, mức độ nguy hại của độc chất không dừng lại ở các chứng bệnh thông thường như tiêu chảy, kiết lị, thương hàn do vi khuẩn Samonella, vi sinh E. Coli, Coli Feacal… mà ảnh hưởng lâu dài, gây biến đổi gen như dư lượng kháng sinh Choramphicol trong hàng thủy hải sản, hormon tăng trọng như Clenbutyrol, Sabutamol gây ung thư trong thức ăn gia súc, gia cầm cũng như nhiều loại hóa chất, phẩm màu, tẩy trắng, tạo keo, tạo mùi, vô cùng độc hại đến từ các vùng biên giới. Rõ ràng người tiêu dùng đang rơi vào trạng thái lo lắng, hoảng sợ, không biết phải đối phó làm sao khi cầm phải bó rau muống hay rau nhút…có giá 1.000 đồng/ bó trên tay, mua nhầm miếng thịt nhiễm độc từ thức ăn chăn nuôi thì cũng bó tay, đó là chưa kể các bí quyết của nhà chợ bán hàng pha thêm hóa chất bảo quản, trộn thịt tốt xấu, nhiễm bệnh để tiêu thụ.

Chận ngay từ gốc

Thiết nghĩ các cơ quan quản lí thị trường từ cấp khu phố đến cấp thành phố cần có lực lượng và phương tiện để rà soát triệt việc thâm nhập các loại hàng nầy vào từng ngỏ ngách và có biện pháp cứng rắn như cảnh sát giao thông đối với người vi phạm đi ngược chiều…bằng cách tịch thu, đóng sạp và không cho phép kinh doanh lâu dài bằng cách niêm yết danh tính, mặt hàng lên mạng lưới thông tin đại chúng và khu phố nơi phát hiện đồng thời truy tìm tận gốc nơi sản xuất-xuất xứ để kết hợp với chính quyền địa phương đó cộng tác ngăn chận ngay từ gốc.

Việc lập lại một trật tự mới trong đời sống nhân dân trước hiểm họa ô nhiễm độc tố là một việc làm vô cùng bức thiết . Tất nhiên đây là một việc làm quyết liệt và lâu dài, không nên có xu hướng triển khai rầm rộ, phô trương theo chiến dịch để “dọa nạt” như trường hợp chống hàng Mỹ phẩm có chất Sudan, “tịch thu” một cách ồn ào nhưng người buôn bán ở chợ đã biết trước, vội vàng đóng cửa sạp khi “đoàn ta” đến !…

Người tiêu dùng ở nước ta quá “hiền”

Hơn thế, điều cần nói là người tiêu dùng ở nước ta quá “hiền”, mua lỡ hàng có chứa chất độc, thịt bẩn, nước tương “đen” cũng đành chịu, các nhà quản lý kêu gọi “người tiêu dùng phải thông minh” để đối phó nhưng đây là điều “nói cho có” chứ thử hỏi các bà nội trợ làm sao có thể phân biệt được hàng nào “tốt” hàng nào “sạch” trong khi tất cả đều tù mù, như bị đánh đố. Một phương cách bảo vệ chính là bản thân người tiêu dùng biết cách liên kết với các cơ quan truyền thông, tích cực thông báo và lên tiếng để mọi người cùng biết và thẳng tay “tẩy chay”, loại trừ các loại thực phẩm có hại ra khỏi đời sống, trong đó tẩy chay luôn các sạp, siêu thị, cửa hàng…tiếp tay tiêu thụ những”nhà sản xuất” vi phạm.

Cơ quan chính quyền, công an địa phương, quản lý thị trường…cần phải có biện pháp bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng bằng những qui chế thu hồi, tiêu hủy, và buộc nhà sản xuất phải đền bù cho người bị hại đồng thời hạn chế mọi hành vi cạnh tranh không lành mạnh như hiện tượng bôi xấu nhau như đã xảy ra trong vụ nước tương “đen” hoặc hành vi vu khống của người xấu để “ăn vạ”.

Ở các nước phát triển, chính phủ đã ban hành luật P.L (Product Lialibity)* để bảo vệ người tiêu dùng như ở Mỹ, Nhật, Châu âu… theo đó, cho phép khách hàng trả lại mặt hàng mình đã mua nếu không sử dụng được (sau một thời gian nhất định) đồng thời có thể khởi kiện nhà sản xuất khi bị hậu quả (bệnh tật) do sản phẩm đó gây ra mà vụ nạn nhân Dioxin Việt nam kiện các nhà sản xuất thuốc khai quang của Mỹ là một thí dụ. Các hội, đoàn thể bảo vệ sẵn sàng triển khai các hoạt động tẩy chay nhà sản xuất khi họ vi phạm về qui chế an toàn cho người tiêu dùng trong khu phố.

Đã đến lúc người tiêu dùng phải kết hợp và tiếp tay với những cơ quan chức năng cũng như các cơ quan truyền thông đại chúng để đẩy mạnh hơn nữa việc hạn chế chất độc hại vào đời sống, biết nói “không” một cách dứt khoát hơn thay vì “thụ động” trông chờ vào những chính sách vĩ mô của nhà nước như hiện nay. Không thể để ý thức chống hàng độc hại còn hời hợt của người dân là “chỗ trũng” cho những kẻ “vô lương tâm” thao túng trong sản xuất và kinh doanh càng không thể trông mong vào “đạo đức” của những kẻ sát nhân bằng độc chất để truy cầu lợi nhuận.

Dư lượng kháng sinh: vấn đề nghiêm trọng

Thông tin mới nhất cho biết ngày 25/6/2007 Đại sứ Nhật bản tại Viêt nam ông Hattori Norio đã gửi công hàm cho Bộ trưởng Bộ Thủy sản thông báo cơ quan kiểm dịch nước nầy sẽ có biện pháp gắt gao hơn như cấm nhập khẩu các mặt hàng thủy hải sản nước ta nếu như vấn đề dư lượng kháng sinh không được khắc phục sau khi đã nhiều lần lên tiếng cảnh báo từ giữa năm 2006. Trong 6 tháng đầu năm 2007, Việt nam đã xuất khẩu sang nước nầy 39,090 tấn hàng thủy hải sản (Tôm, cá, mực tươi, mực khô…) và hàng chế biến đông lạnh ( Chả giò hải vị Cua, tôm ) với 6.000 lô trong đó phát hiện 94 lô có dư lượng kháng sinh bị cấm như Chloramphenicol, chất dẫn xuất Nitrofuran, Coliform…sử dụng trong quá trình bảo quản hoặc sát trùng ao nuôi nhiễm bẩn.

Đứng trước nguy cơ

Người ta còn nhớ trong tháng 5/2007 Cơ quan quản lý Thuốc và Thực phẩm Hoa kỳ cũng đã công bố danh sách 28 nhà xuất khẩu thủy hải sản và thực phẩm Việt Nam có hơn 30 mặt hàng vi phạm các tiêu chuẩn vi sinh, kháng sinh, tạp chất, bao bì không đạt… và bị từ chối nhập khẩu cũng như Nga cũng sẽ gửi một đoàn thanh tra vào đầu tháng 7/2007 sang tìm hiểu xem xét việc nhập khẩu hàng thủy hải sản nữa hay không. Những động thái nầy không những đang gây lo lắng cho ngành thủy sản nước ta, có thể đánh mất các thị trường truyền thống ( Nhật bản, Châu âu ) hay thị trường mới đầy tiềm năng ( Nga, Hoa Kỳ… ) và mục tiêu phát triển kim ngạch xuất khẩu ở mức 3,5 đến 4 tỷ đô la sẽ trở thành vô vọng nếu như không được khắc phục triệt để và kịp thời.

Theo đà phát triển trong mấy năm vừa qua, Việt nam đã phải trải qua biết bao vất vả để xây dựng được một thị trường tiêu thụ hàng thủy hải sản rộng khắp thế giới trong đó Châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật bản, Hàn quốc là những thị trường hấp dẫn nhất với mức tiêu thụ cao, vì vậy đây chính là lúc việc rà soát triệt để từ khâu nuôi trồng, đánh bắt, bảo quản và chế biến cũng như kiểm tra, kiểm soát trước khi xuất khẩu là một thách thức lớn đối với ngành thủy sản khi đứng trước nguy cơ nói trên.

Cách thức làm ăn theo lối chụp giựt, chạy theo lợi nhuận trước mắt như tranh nhau thu gom mua hải sản từ nhiều nguồn không được kiểm soát, dùng kháng sinh bừa bãi trong khâu bảo quản ngay sau khi đánh bắt hay không quản lý chặt chẽ việc chọn lựa nguyên liệu chế biến…thì những hậu quả xảy ra là tất nhiên, không kể việc đóng gói sai qui cách, cố tình chích thêm Agar-agar (thạch) vào hàng đông lạnh (TÔM) để tăng trọng lượng hoặc cố tình ghi sai tên mặt hàng… gây ra nhiều hiểu lầm đáng tiếc đã thấy qua vụ kiện của Mỹ xảy ra vào năm 2006.

Dư lượng kháng sinh hàng trong nước : vô tư

Bước vào sân chơi WTO, ngành thủy sản Việt Nam (cũng như một số ngành khác như Cà phê, Hạt điều, Gạo…) sẽ còn có nhiều cơ hội để vươn ra thị trường thế giới,góp phần đẩy nền kinh tế đi nhanh như dự kiến nhưng có phải chúng ta đã quá chủ quan trong khâu quản lý từ nhà sản xuất(công ty) trong nước đến những cơ quan chức năng về thương mại, kiếm dịch…tự mình đánh mất giá trị của thương hiệu khi bị từ chối và có thể bị cấm nhập khẩu như trường hợp một số hàng thủy hải sản của Trung quốc khi xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Người dân các nước tiên tiến đều được cảnh báo nguy cơ phơi nhiễm hóa chất độc hại trong lương thực, có thể từ các mặt hàng thủy sản nuôi trồng (Tôm, Lươn, Cá Basa…) như Chloramphinecol, Nitrofuran sang cơ thể con người ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ miễn nhiễm, mất khả năng kháng thuốc khi tích tụ lâu ngày và có khả năng gây đột biến, rối loạn nội tiết.

Việc sử dụng rộng rãi các loại thuốc kháng sinh, trừ sâu (phân Urê) là một thói quen của ngư dân hay nông dân nuôi trồng thủy sản ở nước ta nhằm tiết kiệm giá thành cũng như giữ được độ tươi lâu hơn trong khâu chế biến, tiêu thụ…nhưng rất tiếc cho tới nay vấn đề quản lý những chất độc nầy vẫn còn bỏ ngỏ, không thấy các lực lượng thanh tra vệ sinh phòng dịch, an toàn thực phấm lên tiếng trong khi các hàng thủy hải sản vẫn có mặt tại mọi chợ. Nói khác đi, người dân không ai biết dư lượng độc tố, kháng sinh, vi khuẩn gây bệnh… trong hàng tiêu dùng mỗi ngày, đang phải sống chung với chúng một cách “vô tư” trong khi hàng xuất khẩu thì ngược lại ngày càng được kiểm tra chặt chẽ hơn.

Các nhà sản xuất, chế biến sẽ không tiêu hủy khi tự họ phát hiện dư lượng kháng sinh trong những lô hàng xuất khẩu sẽ giải quyết dễ dàng bằng cách tung trở lại vào thị trường trong nước để cứu vãn như những chiếc áo sơ mi “phế phẩm” đang được bày bán hiện nay. Mỗi khi sự kiện ngộ độc tập thể xảy ra thì khi đó mới thấy đội Vệ Sinh Phòng Dịch, và cứ như thế công việc hậu kiểm để đối phó với dư luận luôn đi sau hậu quả chết người, hai chữ “phòng dịch” không còn giá trị khi hiện tượng phơi nhiễm độc chất trong hàng tươi sống cũng như chế biến chưa được giải quyết tận gốc mà khâu nhập khẩu, tiêu thụ hóa chất trên thị trường vẫn được thả nổi như hiện nay.

Tự do nhập khẩu hóa chất độc hại

Trong phiên họp đầu năm 2007, Thứ trưởng thương mại Phan thế Ruệ cho biết năm 2006, chúng ta nhập hơn 1,2 tỷ đô la hóa chất cho ngành chế biến, lương thực nhưng không quan tâm đến việc những hóa chất nầy được sử dụng như thế nào, có độc tính ra sao! Ngay tại TpHCM chúng ta có thể tìm thấy dễ dàng hàng trăm, nghìn loại hóa chất, từ acid chlohydric, sulfuric đến vitamin tổng hợp, phụ gia đủ loại cho các ngành tại chợ Kim Biên, thậm chí muốn mua Cyanure giết người cũng có, cho nên việc lạm dụng hóa chất là “chuyện thường ngày ở huyện”, các cơ quan chức năng chưa đủ khả năng để kiểm soát và không chế. Ngăn chận hóa chất độc hại ngay từ khi nhập khẩu,cấm chỉ hoặc hạn chế, quản lý nghiêm nhặt việc sử dụng để chế biến không có giấy phép, gian lận trong thương mại bằng cách pha trộn tạp chất (dưới tên gọi phụ gia)…có hại cho người tiêu dùng trong nứớc lẫn nước ngoài đều phải được quan tâm ngang nhau, không có lí gì hàng bị từ chối nhập khẩu vì vi phạm luật nước sở tại lại quay ngược về thị trường trong nước để “đầu độc”người tiêu dùng một cách vô tội vạ như hiện nay.

Thiết nghĩ những động thái và phản ứng hiện nay của các nước tiêu thụ hàng thủy hải sản đối với nước ta không chỉ là lời cảnh báo, đe dọa mà là những góp ý cần thiết, nêu lên điều kiện bắt buộc để chúng ta có biện pháp cứu vãn không những đảm bảo chất lượng trong xuất khẩu, gìn giữ giá trị của thương hiệu Việt mà còn giúp chúng ta cơ hội nhìn lại việc tăng cường quản lý đối với cả mặt hàng đang được tiêu thụ trong nước.

Những biện pháp cứng rắn và cương quyết nhằm đám bảo sức khỏe của nhân dân trước hiểm họa độc tố tràn lan đang là một yêu cầu bức xúc. Con số người chết vì ung thư vì lương thực, thực phẩm đã lên đến 35% trong số 150.000 người/năm theo thông báo của Bộ Y tế, tức gấp 3 - 4 lần số người chết vì tai nạn giao thông .

Sống giữa rừng độc tố điều gì sẽ đến với con em chúng ta?

Ô nhiễm độc tố trong thực phẩm

Thông báo mới nhất trong tháng 5/2007 của Cơ quan quản lý Thuốc và thực phẩm Hoa kỳ (FDA, Food and Drug Administration) cho biết hơn 30 mặt hàng thực phẩm (mì ăn liền, hồ tiêu, bánh, rau quả muối, hạt điều, bún gạo…) thủy hải sản đông lạnh (tôm, cá mực, cua…) có xuất xứ từ Việt Nam không đạt tiêu chuẩn về bao bì, đóng gói và dư lượng kháng sinh , độc tố, vi khuẩn Salmonella gây bệnh tiêu chảy, thương hàn bị nghiêm cấm trong thực phẩm. Số hàng nầy của hơn 28 cơ sở trong nước được FDA công bố để cảnh cáo và cấm đưa vào tiêu thụ trên toàn lãnh thổ Hoa kỳ. Chúng ta thường nghe thấy chính phủ Nhật bản đã nhiều lần phát hiện dư lượng kháng sinh Chloramphenicol trong nhiều lô hàng thủy sản của Việt nam và buộc phải thiêu hủy đồng thời đe dọa sẽ tiếp tục kiểm soát gắt gao hàng của một số xí nghiệp chế biến trong nước đã vi phạm. Công bố của phía Mỹ là bước mở đầu cho thấy thế giới sẽ theo dõi nghiêm nhặt việc quản lý chất lượng và hạn chế hàng không đạt tiêu chuẩn vào lãnh thổ của họ nhằm bảo vệ người tiêu dùng, đe dọa đến thị trường hàng thủy sản và thực phẩm của Việt Nam trong khi khối lượng thủy hải sản xuất khẩu của nước ta ngày càng phát triển, đạt hơn mức 3,5 tỷ đô la/năm

Đây là một thực tế cho thấy các công ty khai thác cũng như nuôi trồng thủy hải sản, chế biến lương thực ở trong nước xem thường việc quản lý chất lượng, đồng thời thiếu sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan có chức năng kiểm dịch và chất lượng trước khi hàng được đưa ra thị trường hoặc xuất khẩu.

Lan tràn trên thị trường trong nước

Trong tháng triển khai chiến dịch an toàn thực phẩm vừa qua, các đội kiểm tra vệ sinh thực phẩm đã phát hiện không ít cửa hàng bán phở ngay tại thủ đô Hà nội, có trên 60% bánh phở chứa formol, hàn the (borax) hay thịt tươi sống có tẩm các loại phụ gia, hóa chất chống thối, giữ cho thịt có màu đỏ tươi…các loại thịt gia cầm, gia súc (bò, lợn…) chưa qua kiểm dịch trong khi bệnh cúm gà và lỡ mồm long móng vẫn còn tiếp diễn. Đó là chưa kể đến các loại phẩm màu, chất bảo quản độc hại trong các sản phẩm lương thực ăn sẵn, chế biến…không rõ nguồn gốc và công thức đang được bán lan tràn tại chợ, thịt lợn nuôi bằng hormone tăng trọng nguy hiểm. Hiện tượng chất Sudan gây ung thư trong tương ớt nhập, kem đánh răng có chất Diethylene Glycol (thay thế Glycerine) làm hư thận, gây suy hô hấp hay thuốc chống sốt rét giả có xuất xứ Trung quốc là một vài thí dụ điển hình cho thấy nước ta và nhiều nước nghèo trên thế giới là nơi tiêu thụ vô tội vạ những sản phẩm rẻ tiền, gây bệnh, ngoài vòng kiểm soát của cơ quan chức năng.

Người dân ngày càng hoang mang, nghi ngờ khi nguồn lương thực thủy hải sản, thực phẩm chế biến cũng như thuốc trị bệnh có chứa hóa chất “dỏm”, độc tố ngày càng nhiều, không thấy những cơ quan quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm đưa ra những tiêu chuẩn cũng như danh sách, hạng mục và công bố những nhà sản xuất vi phạm rõ ràng và cập nhật để người dân được biết. Hơn thế nữa biện pháp chế tài (phạt hành chính lẫn thu hồi) không đủ để răn đe việc vi phạm, chỉ theo sau sự việc đã rồi, không thể nào kiểm soát nổi. Ngày 23/5/2007 Chánh thanh tra Sở Y tế TpHCM công bố 20 trong 30 cơ sở (được kiểm nghiệm) chế biến nước tương vi phạm tiêu chuẩn 3-MCPD cho phép từ 2 lần đến 2.215 lần (Hai nghìn hai trăm mười lăm lần—tôi nhấn mạnh) và có sản phẩm lên tới 4.000 - 55.000 lần hơn !. Thực tế , số cơ sở chế biến nước tương trong thành phố là bao nhiêu, thanh tra của Sở cũng không nắm được, “chỉ biết là dưới 70” và tất cả có bao nhiêu sản phẩm nước tương đang lưu hành trên thị trường? Nói khác đi 2/3 vi phạm chỉ là con số biểu kiến, sự thật còn có thể cao hơn nhiều, khắp nơi ngoài phạm vi thành phố vì vậy “việc thu hồi nước tương có 3-MCPD không đơn giản…sau 2-3 tuần có kết quả (kiểm nghiệm) thì…lô đó đã được bán hết hoặc đưa đi khắp nơi tiêu thụ rồi”. Rút cuộc tình trạng “rượt đuổi” nầy không biết đến bao giờ mới kết thúc cũng như thuốc chữa bệnh giả, dỏm không đạt chất lượng chỉ có thể biết được sau khi hàng đã được phát tán khắp nơi. Theo thông báo thì Sở Y tế TPHCM đã phạt hành chính tổng cộng 110 triệu đồng với 20 cơ sở vi phạm . Số tiền nầy liệu có đủ sức “răn đe” không hay cũng chỉ “giơ cao đánh khẽ” trong khi đó, công ty Vitecfood-- nơi sản xuất nước tương Chin-su-- treo giải thưởng 1 tỷ đồng cho người phát hiện nước tương của hãng nầy không đạt chuẩn như một thách thức dư luận và cơ quan quản lý nhà nước. (Nhà sản xuất nước tương hiệu Chin-su cũng là một trong 20 đơn vị vi phạm lần nầy).

Thông tin mới nhất cho biết trong nhiều năm liền Viện Vệ sinh Y tế Công Cộng đã phát hiện nhiều loại nước tương vựơt mức cho phép đến 11.000 đến 18.000 lần, tỷ lệ vi phạm nồng độ 3-MCPD lên đến 80% mẫu xét nghiệm nhưng tất cả đều bị “ém nhẹm” chìm trong bóng tối suốt 6 năm qua và các đơn vị chủ quản bỏ mặc “không làm thương tổn doanh nghiệp nếu doanh nghiệp không vi phạm”… Lãnh đạo của Sở Y tế TPHCM tâm sự “thời gian qua mỗi khi phát hiện cơ sở nào vi phạm, sở đều có xử phạt… tuy nhiên luật có những bất cập mà nhiều khi ngành y tế không thể làm khác được”!

Đã qua rồi thời kỳ phân biệt nội, ngoại

Trong thời kỳ nước ta đã gia nhập WTO, thị trường trong và ngoài nước đều cạnh tranh ngang nhau thì thử hỏi 50 mặt hàng thực phẩm và thủy hải sản của Việt Nam mà FDA Hoa kỳ cấm nhập vào nội địa nước Mỹ nêu trên không hề được tiêu thụ trong nước (Việt Nam)? hay vẫn có nhưng nhà nước và người tiêu dùng không hề biết là chứa độc tố, vi khuẩn gây bệnh . Vấn đề này cần phải được giải quyết tận gốc để hàng tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu được đảm bảo cùng một chất lượng, thật khó hiểu khi hàm lượng đôc tố 3-MCPD chất gây ung thư trong nước tương được bộ Y tế cho phép ( dưới 1mg/l) lại cao 50 lần hơn tiêu chuẩn của Châu âu (dưới 0.02 mg/l), không lẽ cơ địa người Việt lại có tính miễn nhiễm gấp 50 lần hơn người dân Châu âu?. Đã qua rồi thời kỳ hàng xuất khẩu và hàng nội địa có sự chênh lệch về chất lượng và giá cả như hai mươi năm trước. Liệu tôm,cá mực… mà người dân trong nước tiêu thụ mỗi ngày có ai kiểm tra chưa hay “bình chân như vại”, chỉ có Mỹ , Nhật là “làm khó” ta thôi ?! Đối với những nhà sản xuất vi phạm, các nước nầy chắn chắc sẽ cấm chỉ việc giao dịch và nhập khẩu thì tại sao các cơ quan chủ quản của nứớc ta không thể có biện pháp “tạm “rút giấy phép kinh doanh, buộc cơ sở sản xuất phải đóng cửa một thời gian để cảnh cáo và chấn chỉnh khi vi phạm vượt mức về phẩm chất và sản lượng theo một qui định cụ thể, thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự của người đứng đầu cơ sở sản xuất .Thật đau lòng khi nghe Ông Nguyễn đức An, Chánh thanh tra Sở Y tế TPHCM tiết lộ “ chúng ta chưa có một phòng kiểm nghiệm thực phẩm đạt chuẩn và có tính pháp lý cao nhất để kết luận và công nhận kết quả kiểm nghiệm nào chính xác” . Điều nầy cũng tương tự như sự kiện Vaccine ngừa viêm gan siêu vi B cho trẻ sơ sinh, khi có 4 trẻ bị tử vong người ta mới biết lô thuốc nầy của LG (Hàn quốc) chưa được kiểm nghiệm, vì (vào thời điểm nhập khẩu) chúng ta cũng chưa có qui định, “chỉ thử bằng cách tiêm vào chuột” đơn giản và 5 năm mới xét nghiệm một lần về tiêu chuẩn hóa lí. Thực tế đau lòng nầy cũng gợi mở cho những nhà khoa học Việt Nam ở trong cũng như ngoài nước cùng hợp tác xây dựng cơ sở nghiên cứu và kiểm tra chất lượng theo tiêu chuẩn được các tổ chức quốc tế công nhận kết quả và phù hợp với qui định của nhà nước Việt nam đáp ứng nhu cầu về kiểm phẩm của cơ sở sản xuất ngày càng phát triển như hiện nay.

Sức khỏe của người dân đang bị “đùa giỡn” hay phó mặc cho những tay “đồ tể”, giết người để mưu cầu lợi nhuận bằng những sản phẩm độc hại, gieo rắc cái chết không báo trước mà sự kiện “Nước tương” là một trường hợp điển hình. Những độc tố nầy không những gây bệnh hiểm nghèo dẫn đến tử vong cho những người đang sống mà còn có khả năng tác hại lên thế hệ con cháu qua di truyền, tỷ lệ trẻ sơ sinh biến dạng, tật nguyền sẽ tiếp tục tăng cao trong lúc chất độc Dioxin trong thuốc diệt cỏ màu da cam của quân đội Mỹ gieo rắc trong chiến tranh vẫn là nỗi lo sợ ám ảnh và khoa học ngày nay chưa có biện pháp ngăn ngừa mỗi khi đã nhiễm vào cơ thể con người.

Đã đến lúc không thể thơ ơ được nữa, sự lên tiếng cảnh báo vẫn chưa đủ mà chúng ta đòi hỏi cơ quan chức năng phải có biện pháp ngăn chận kịp thời và quyết liệt hơn bằng một đạo luật bảo vệ sự sống của người dân trước hiểm họa “ô nhiễm” nghiêm trọng của thuốc trị bệnh giả, dỏm và thực phẩm độc hại trọng trong đó vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm tươi sống cũng như sản phẩm chế biến được xem là ưu tiên hàng đầu vì nó ảnh hưởng trực tiếp và thường xuyên lên cơ thể và sức khỏe con người.