OPEC và "cơn bão"... giá dầu thế giới
Vào đúng ngày này, 45 năm về trước (14.09.1960) tổ chức OPEC (Organization of Petroleum Exporting Countries - Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ) được thành lập với 11 thành viên: Algeria, Indonesia, Iran, Iraq, Kuwait, Libya, Nigeria, Qatar, Saudi Arabia, United Arab Emirates và Venezuela. Và từ đó đến nay tổ chức này đã gắn liền với mọi hoạt động khai thác, sản xuất, kinh doanh... dầu trên thế giới.
Đôi nét về OPEC
Vào cuối thập niên 50, việc khai thác dầu mỏ trên thế giới do những công ty lớn đảm nhiệm, giá dầu và sản lượng khai thác do từng công ty kiểm soát đã dẫn đến tình trạng dầu liên tục bị mất giá do các công ty đua nhau bán phá giá. Trước tình hình đó, các nước xuất khẩu dầu trên thế giới nhận thấy cần có một tổ chức chung để điều hành và thống nhất giá và sản lượng khai thác dầu trên thế giới, bảo vệ lợi ích của từng quốc gia. Họ đã ngồi lại cùng bàn và ngày 14.09.1960, tổ chức OPEC ra đời. Trong số các nước thành viên, có hai nước gia nhập sau, nhưng sau đó lại rút khỏi OPEC là: Ecuador (gia nhập năm 1973, rút khỏi năm 1992), Gabon (gia nhập 1975, rút khỏi: 1995). OPEC có văn phòng đặt tại Vienna và được điều hành bằng những nghị quyết được thông qua tại các kỳ họp diễn ra ít nhất là 2 lần trong 1 năm.
OPEC bắt đầu đánh dấu tầm quan trọng của mình vào kỳ họp lần thứ 35 tại Vienna tháng 9 và 10.1973 bằng việc tăng giá dầu lên 70%. Các nước OPEC vùng Trung Đông lúc đó dùng giá dầu như một vũ khí chống lại các nước phương Tây ủng hộ Israel trong cuộc chiến tranh chống lại các nước Arab láng giềng. Ngay sau đó, vào tháng 12, dầu đã tăng giá lên 130%, đồng thời, OPEC cũng đã ban hành lệnh cấm vận đối với các tàu chở dầu đến Hà Lan và Mỹ.
Những lần tăng giá dầu sau đó lại tiếp diễn vào các năm 1975, 1977, 1979 và đặc biệt là vào năm 1980 với sự tăng giá đột biến từ 3 USD lên 30 USD/thùng. Trước cơn sốt giá dầu này, các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ, bắt đầu áp dụng các biện pháp nhằm tiết kiệm năng lượng, tìm kiếm nguồn năng lượng thay thế dầu mỏ, chủ yếu là than đá, tiến hành thăm dò và khai thác dầu ngay trên lãnh thổ của họ và các quốc gia ngoài OPEC như Nga và Mexico. Phản ứng của phương Tây đã buộc các nước OPEC phải hạ giá dầu và cắt giảm sản lượng khai thác vào năm 1982. Những mâu thuẫn trong nội bộ các nước OPEC về thái độ của mỗi nước đối với cuộc chiến tranh Iran - Iraq cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho giá dầu và sản lượng khai thác đều sụt giảm.
Sự phát triển của từng thành viên OPEC cũng không đồng đều, các nước vùng Vịnh như Kuwait, Qatar, Saudi Arabia, và Các tiểu vương quốc Arab thống nhất có trữ lượng và sản lượng khai thác cao hơn, tạo nên sự thịnh vượng cho đất nước và cũng luôn biết dùng giá dầu như một công cụ chính trị quan trọng chi phối thế giới, nhất là các nước phương Tây. Nhưng không phải lúc nào, những nghị quyết của OPEC đưa ra cũng được các nước thành viên tuân thủ nghiêm ngặt. Tuy vậy, mọi động thái của OPEC đều có thể gây ảnh hưởng lớn đến giá dầu thế giới trong suốt nhiều năm qua, đặc biệt là trong những biến động về giá dầu hai năm trở lại đây.
Sự đột biến giá xăng dầu trên thế giới và vai trò của OPEC trong hai năm gần đây
Kể từ năm 2003, giá dầu thô thế giới đã tăng hơn gấp đôi cho dù 11 nước thành viên OPEC đã nâng sản lượng dầu lên mức cao nhất trong 26 năm qua. Các chuyên gia tư vấn về dầu mỏ nhận định giá dầu dường như nằm ngoài tầm kiểm soát của OPEC và hiện biến động không chỉ đơn thuần phản ánh các yếu tố cung cầu. Nhà kinh tế Blune của Tập đoàn tài chính SHBC cảnh báo rằng thực tế giá dầu liên tục tăng cao dường như đang chấp nhận là hiện tượng lâu dài.
Có một hiện thực hiển nhiên ai cũng thấy, dầu mỏ hiện đang là nguyên nhiên vật liệu được giao dịch với khối lượng lớn, mà giá cả bị chi phối bởi 2 yếu tố chính là quy luật cung cầu của thị trường và tình hình chính trị an ninh tại những quốc gia sản xuất dầu chủ chốt.
Vào thời điểm 1979, khi diễn ra cuộc Cách mạng Hồi giáo tại Iran, giá dầu bị đẩy lên tới con số cao kỷ lục, nếu tính theo trị giá hiện nay là khoảng 78 USD/thùng. Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính 1997 - 1998 ở châu Á, sau đó lan sang các quốc gia khác như Brazil, Argentina, Nga..., đã làm cho nhu cầu tiêu thụ năng lượng giảm mạnh, kéo theo giá dầu thô thậm chí có lúc chỉ còn 10 USD/thùng. Rồi trong những năm 2001 - 2002 và những tháng đầu năm 2003, nền kinh tế thế giới trì trệ do các "đầu tàu" Hoa Kỳ, Nhật Bản và Tây Âu đều rơi vào khủng khoảng, khi đó giá dầu chỉ dao động từ 22 - 25 USD/thùng.
Nhưng kể từ nửa sau năm 2003, tình hình đã khác đi. Hoa Kỳ, Nhật Bản và Tây Âu đã bước vào giai đoạn phục hồi mạnh mẽ. Cùng với mức tiêu thụ ngày càng cao của Trung Quốc, nhu cầu dầu mỏ tăng vọt. Và theo các chuyên gia kinh tế, đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng tăng giá như hiện nay. Dự báo, tình trạng khan hiếm dầu mỏ còn kéo dài, ít nhất là 2 - 5 năm nữa, trừ phi có một “biến cố lớn” xảy ra (chẳng hạn như khủng khoảng kinh tế Trung Quốc).
Nhu cầu tăng vọt trong khi nguồn cung không tăng theo kịp. Ngay cả một số quốc gia trong OPEC cũng khó mà khai thác đủ hạn ngạch được giao do những khó khăn riêng. Như ông Purnomo Yusgiantoro, Bộ trưởng Năng lượng Indonesia, Chủ tịch OPEC thừa nhận: “Các quốc gia như Iraq, Venezuelea hay Nigeria không khai thác đủ công suất vì những bất ổn về chính trị trong nước, còn Saudi Arabia thì bị nạn khủng bố đe dọa, Libya vẫn bị hạn chế xuất khẩu dầu do lệnh cấm vận...”.
Một nguyên nhân khác là do đồng USD suy yếu. Từ đầu năm 2002 đến nay, USD mất giá từ 15-19% so với các đồng ngoại tệ khác. Trong khi dầu mỏ được giao dịch bằng USD, khi đồng tiền này bị mất giá, các nước xuất khẩu muốn nâng giá dầu thô để bù lại. Các chuyên gia nhận định, có thể không xảy ra một cuộc khủng khoảng dầu mỏ như hồi 1979, nhưng nếu giá dầu tăng cao trong một thời gian dài thì tác hại lại không khác gì một cuộc khủng khoảng lớn.
Theo tính toán của Goldman Sachs, nếu giá dầu tăng 10% thì GDP của 7 quốc gia giàu nhất thế giới (G7) bị sụt giảm 0,3% - tức 70 tỷ USD. Còn theo Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), nếu giá dầu tăng 5 USD/thùng thì tăng trưởng kinh tế toàn thế giới bị sụt giảm 0,30%.
Nhìn chung, phần thiệt hại nhiều nhất sẽ thuộc về các quốc gia nhập khẩu lớn như Nhật, Hoa Kỳ, Tây Âu hay Trung Quốc. Còn các nước khác, mức độ bị tác động có phần ít hơn. Với dự đoán giá dầu vẫn còn cao trong vòng 2 - 6 năm tới, các nước phải tìm cách “sống chung” với tình hình. Và quan trọng hơn, là tìm cách cải thiện hiệu năng tiêu thụ, cũng như có những chính sách và biện pháp phù hợp hạn chế những tác động đến nền kinh tế.
Việt Nam trước "cơn sốt" giá xăng dầu
Nhiều người vẫn tưởng rằng, là một nước đang khai thác và xuất khẩu dầu thô, hẳn Việt Nam sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn trong đợt tăng giá dầu lần này, nhưng thực tế không hẳn như vậy.
Theo PetroVietnam, tính đến hết tháng 8, tổng lượng dầu thô xuất khẩu toàn ngành ước đạt 11,123 triệu tấn, đạt 68% kế hoạch năm. Tuy về lượng chỉ tăng nhẹ so với cùng kỳ năm ngoái (tăng 2%), nhưng kim ngạch xuất khẩu khá cao do giá xuất khẩu luôn luôn ổn định ở mức 28 - 29 USD/thùng (tương đương 220 USD/tấn). Với giá xuất khẩu này, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam 8 tháng ước đạt 2,453 tỷ USD, đạt 90% kế hoạch và tăng 25% so với cùng kỳ. Dự kiến giá trị kim ngạch xuất khẩu dầu cả năm sẽ đạt 3,5 - 3,7 tỷ USD.
Thế nhưng, Việt Nam cũng lại là nước phải nhập khẩu xăng dầu thành phẩm vì chưa có nhà máy lọc dầu. Xăng dầu là thành tố quan trọng trong giá thành của tất cả các loại hàng hoá, vì vậy, một khi giá xăng dầu tăng, giá cả thị trường tất yếu sẽ tăng theo. Muốn tránh những biến động lớn về giá cả thị trường, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân, nhà nước buộc lòng phải tiếp tục bù lỗ cho xăng dầu. Tại buổi họp báo ngày 17.08, Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Văn Tá cho biết, do giá xăng, dầu thị trường thế giới tăng cao nên 7 tháng đầu năm 2005, ngân sách Nhà nước phải bù lỗ khoảng 7.554 tỷ đồng. Nếu giá xăng, dầu thị trường thế giới tiếp tục giao động ở mức cao như nửa đầu tháng 8 (61 USD - 67 USD/thùng) và giá bán xăng, dầu trong nước vẫn được giữ nguyên thì việc kinh doanh các chủng loại xăng, dầu đều lỗ lớn. Và như thế, 5 tháng cuối năm, ngân sách Nhà nước sẽ phải bù lỗ khoảng 5.400 tỷ đồng, cả năm phải bù lỗ là khoảng 13.000 tỷ đồng.
Nguồn lợi nhuận gia tăng do giá dầu thô xuất khẩu tăng hầu như chỉ vừa đủ dùng vào việc bù lỗ này. Một khi đã bán lẻ xăng dầu với giá thấp hơn giá thành nhập khẩu, sẽ không thể tránh khỏi tình trạng "chảy máu" xăng dầu qua biên giới do buôn lậu vì sự chênh lệch về giá giữa Việt Nam và các nước láng giềng ngày càng lớn. Việc điều chỉnh giá xăng ngày 17.08 vừa qua đã giải quyết được một phần tác động của giá xăng, dầu thị trường thế giới đang ở mức cao. Cụ thể là: hạn chế được một phần chênh lệch giá xăng, dầu với các nước láng giềng, góp phần hạn chế tình trạng buôn lậu xăng, dầu quan biên giới; chống gian lận thương mại; ngân sách Nhà nước bớt một phần bù lỗ .
Nhưng nay, giá dầu trên thế giới lại tiếp tục tăng, việc bình ổn giá cả, ổn định đời sống nhân dân trong "cơn bão" biến động giá trên toàn cầu lúc này là một bài toán khó, không thể cứ mãi bù lỗ, nhưng điều chỉnh giá cả làm sao để lợi ích quốc gia không bị ảnh hưởng nghiêm trọng vì sự "bao cấp" giá xăng dầu, đồng thời cũng không gây nên những cú sốc tương tự như "cơn sốt" tại các cây xăng ngày 30.08 vừa qua.
Đã đến lúc, người dân cũng nên chia sẻ cùng nhà nước khó khăn này bằng cách nhà nhà, người hãy cố gắng tiết kiệm tối đa trong việc sử dụng năng lượng, như thế, "vừa ích nước, lại vừa lợi nhà". Tìm ra đối sách thích hợp, khôn ngoan trước tình hình biến động khôn lường của giá cả xăng dầu sẽ còn kéo dài là yêu cầu bức thiết đặt ra đối với các nhà hoạch định chính sách kinh tế quốc gia.
Thu Phong
|