NewYork Paris Hà Nội Khách thứ :

NIỀM TIN TƯƠNG LAI

     

Sống giữa rừng độc tố điều gì sẽ đến với con em chúng ta - Hồng Lê Thọ , Kiều bào Nhật Bản

Ô nhiễm độc tố trong thực phẩm

Thông báo mới nhất trong tháng 5/2007 của Cơ quan quản lý Thuốc và thực phẩm Hoa kỳ (FDA, Food and Drug Administration) cho biết hơn 30 mặt hàng thực phẩm (mì ăn liền, hồ tiêu, bánh, rau quả muối, hạt điều, bún gạo…) thủy hải sản đông lạnh (tôm, cá mực, cua…) có xuất xứ từ Việt Nam không đạt tiêu chuẩn về bao bì, đóng gói và dư lượng kháng sinh , độc tố, vi khuẩn Salmonella gây bệnh tiêu chảy, thương hàn bị nghiêm cấm trong thực phẩm. Số hàng nầy của hơn 28 cơ sở trong nước được FDA công bố để cảnh cáo và cấm đưa vào tiêu thụ trên toàn lãnh thổ Hoa kỳ. Chúng ta thường nghe thấy chính phủ Nhật bản đã nhiều lần phát hiện dư lượng kháng sinh Chloramphenicol trong nhiều lô hàng thủy sản của Việt nam và buộc phải thiêu hủy đồng thời đe dọa sẽ tiếp tục kiểm soát gắt gao hàng của một số xí nghiệp chế biến trong nước đã vi phạm. Công bố của phía Mỹ là bước mở đầu cho thấy thế giới sẽ theo dõi nghiêm nhặt việc quản lý chất lượng và hạn chế hàng không đạt tiêu chuẩn vào lãnh thổ của họ nhằm bảo vệ người tiêu dùng, đe dọa đến thị trường hàng thủy sản và thực phẩm của Việt Nam trong khi khối lượng thủy hải sản xuất khẩu của nước ta ngày càng phát triển, đạt hơn mức 3,5 tỷ đô la/năm

Đây là một thực tế cho thấy các công ty khai thác cũng như nuôi trồng thủy hải sản, chế biến lương thực ở trong nước xem thường việc quản lý chất lượng, đồng thời thiếu sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan có chức năng kiểm dịch và chất lượng trước khi hàng được đưa ra thị trường hoặc xuất khẩu.

Lan tràn trên thị trường trong nước

Trong tháng triển khai chiến dịch an toàn thực phẩm vừa qua, các đội kiểm tra vệ sinh thực phẩm đã phát hiện không ít cửa hàng bán phở ngay tại thủ đô Hà nội, có trên 60% bánh phở chứa formol, hàn the (borax) hay thịt tươi sống có tẩm các loại phụ gia, hóa chất chống thối, giữ cho thịt có màu đỏ tươi…các loại thịt gia cầm, gia súc (bò, lợn…) chưa qua kiểm dịch trong khi bệnh cúm gà và lỡ mồm long móng vẫn còn tiếp diễn. Đó là chưa kể đến các loại phẩm màu, chất bảo quản độc hại trong các sản phẩm lương thực ăn sẵn, chế biến…không rõ nguồn gốc và công thức đang được bán lan tràn tại chợ, thịt lợn nuôi bằng hormone tăng trọng nguy hiểm. Hiện tượng chất Sudan gây ung thư trong tương ớt nhập, kem đánh răng có chất Diethylene Glycol (thay thế Glycerine) làm hư thận, gây suy hô hấp hay thuốc chống sốt rét giả có xuất xứ Trung quốc là một vài thí dụ điển hình cho thấy nước ta và nhiều nước nghèo trên thế giới là nơi tiêu thụ vô tội vạ những sản phẩm rẻ tiền, gây bệnh, ngoài vòng kiểm soát của cơ quan chức năng.

Người dân ngày càng hoang mang, nghi ngờ khi nguồn lương thực thủy hải sản, thực phẩm chế biến cũng như thuốc trị bệnh có chứa hóa chất “dỏm”, độc tố ngày càng nhiều, không thấy những cơ quan quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm đưa ra những tiêu chuẩn cũng như danh sách, hạng mục và công bố những nhà sản xuất vi phạm rõ ràng và cập nhật để người dân được biết. Hơn thế nữa biện pháp chế tài (phạt hành chính lẫn thu hồi) không đủ để răn đe việc vi phạm, chỉ theo sau sự việc đã rồi, không thể nào kiểm soát nổi. Ngày 23/5/2007 Chánh thanh tra Sở Y tế TpHCM công bố 20 trong 30 cơ sở (được kiểm nghiệm) chế biến nước tương vi phạm tiêu chuẩn 3-MCPD cho phép từ 2 lần đến 2,215 lần (Hai nghìn hai trăm mười lăm lần—tôi nhấn mạnh) và có sản phẩm lên tới 4,000-55,000 lần hơn !. Thực tế , số cơ sở chế biến nước tương trong thành phố là bao nhiêu, thanh tra của Sở cũng không nắm được, “chỉ biết là dưới 70” và tất cả có bao nhiêu sản phẩm nước tương đang lưu hành trên thị trường? Nói khác đi 2/3 vi phạm chỉ là con số biểu kiến, sự thật còn có thể cao hơn nhiều, khắp nơi ngoài phạm vi thành phố vì vậy “việc thu hồi nước tương có 3-MCPD không đơn giản…sau 2-3 tuần có kết quả (kiểm nghiệm) thì…lô đó đã được bán hết hoặc đưa đi khắp nơi tiêu thụ rồi”. Rút cuộc tình trạng “rượt đuổi” nầy không biết đến bao giờ mới kết thúc cũng như thuốc chữa bệnh giả, dỏm không đạt chất lượng chỉ có thể biết được sau khi hàng đã được phát tán khắp nơi. Theo thông báo thì Sở Y tế TPHCM đã phạt hành chính tổng cộng 110 triệu đồng với 20 cơ sở vi phạm . Số tiền nầy liệu có đủ sức “răn đe” không hay cũng chỉ “giơ cao đánh khẽ” trong khi đó, công ty Vitecfood-- nơi sản xuất nước tương Chin-su-- treo giải thưởng 1 tỷ đồng cho người phát hiện nước tương của hãng nầy không đạt chuẩn như một thách thức dư luận và cơ quan quản lý nhà nước. (Nhà sản xuất nước tương hiệu Chin-su cũng là một trong 20 đơn vị vi phạm lần nầy).

Thông tin mới nhất cho biết trong nhiều năm liền Viện Vệ sinh Y tế Công Cộng đã phát hiện nhiều loại nước tương vựơt mức cho phép đến 11.000 đến 18.000 lần, tỷ lệ vi phạm nồng độ 3-MCPD lên đến 80% mẫu xét nghiệm nhưng tất cả đều bị “ém nhẹm” chìm trong bóng tối suốt 6 năm qua và các đơn vị chủ quản bỏ mặc “không làm thương tổn doanh nghiệp nếu doanh nghiệp không vi phạm”… Lãnh đạo của Sở Y tế TPHCM tâm sự “thời gian qua mỗi khi phát hiện cơ sở nào vi phạm, sở đều có xử phạt… tuy nhiên luật có những bất cập mà nhiều khi ngành y tế không thể làm khác được”!

Đã qua rồi thời kỳ phân biệt nội, ngoại

Trong thời kỳ nước ta đã gia nhập WTO, thị trường trong và ngoài nước đều cạnh tranh ngang nhau thì thử hỏi 50 mặt hàng thực phẩm và thủy hải sản của Việt Nam mà FDA Hoa kỳ cấm nhập vào nội địa nước Mỹ nêu trên không hề được tiêu thụ trong nước (Việt Nam)? hay vẫn có nhưng nhà nước và người tiêu dùng không hề biết là chứa độc tố, vi khuẩn gây bệnh . Vấn đề này cần phải được giải quyết tận gốc để hàng tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu được đảm bảo cùng một chất lượng, thật khó hiểu khi hàm lượng đôc tố 3-MCPD chất gây ung thư trong nước tương được bộ Y tế cho phép ( dưới 1mg/l) lại cao 50 lần hơn tiêu chuẩn của Châu âu (dưới 0.02 mg/l), không lẽ cơ địa người Việt lại có tính miễn nhiễm gấp 50 lần hơn người dân Châu âu?. Đã qua rồi thời kỳ hàng xuất khẩu và hàng nội địa có sự chênh lệch về chất lượng và giá cả như hai mươi năm trước. Liệu tôm,cá mực… mà người dân trong nước tiêu thụ mỗi ngày có ai kiểm tra chưa hay “bình chân như vại”, chỉ có Mỹ , Nhật là “làm khó” ta thôi ?! Đối với những nhà sản xuất vi phạm, các nước nầy chắn chắc sẽ cấm chỉ việc giao dịch và nhập khẩu thì tại sao các cơ quan chủ quản của nứớc ta không thể có biện pháp “tạm “rút giấy phép kinh doanh, buộc cơ sở sản xuất phải đóng cửa một thời gian để cảnh cáo và chấn chỉnh khi vi phạm vượt mức về phẩm chất và sản lượng theo một qui định cụ thể, thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự của người đứng đầu cơ sở sản xuất .Thật đau lòng khi nghe Ông Nguyễn đức An, Chánh thanh tra Sở Y tế TPHCM tiết lộ “ chúng ta chưa có một phòng kiểm nghiệm thực phẩm đạt chuẩn và có tính pháp lý cao nhất để kết luận và công nhận kết quả kiểm nghiệm nào chính xác” . Điều nầy cũng tương tự như sự kiện Vaccine ngừa viêm gan siêu vi B cho trẻ sơ sinh, khi có 4 trẻ bị tử vong người ta mới biết lô thuốc nầy của LG (Hàn quốc) chưa được kiểm nghiệm, vì (vào thời điểm nhập khẩu) chúng ta cũng chưa có qui định, “chỉ thử bằng cách tiêm vào chuột” đơn giản và 5 năm mới xét nghiệm một lần về tiêu chuẩn hóa lí. Thực tế đau lòng nầy cũng gợi mở cho những nhà khoa học Việt Nam ở trong cũng như ngoài nước cùng hợp tác xây dựng cơ sở nghiên cứu và kiểm tra chất lượng theo tiêu chuẩn được các tổ chức quốc tế công nhận kết quả và phù hợp với qui định của nhà nước Việt nam đáp ứng nhu cầu về kiểm phẩm của cơ sở sản xuất ngày càng phát triển như hiện nay.

Sức khỏe của người dân đang bị “đùa giỡn” hay phó mặc cho những tay “đồ tể”, giết người để mưu cầu lợi nhuận bằng những sản phẩm độc hại, gieo rắc cái chết không báo trước mà sự kiện “Nước tương” là một trường hợp điển hình. Những độc tố nầy không những gây bệnh hiểm nghèo dẫn đến tử vong cho những người đang sống mà còn có khả năng tác hại lên thế hệ con cháu qua di truyền, tỷ lệ trẻ sơ sinh biến dạng, tật nguyền sẽ tiếp tục tăng cao trong lúc chất độc Dioxin trong thuốc diệt cỏ màu da cam của quân đội Mỹ gieo rắc trong chiến tranh vẫn là nỗi lo sợ ám ảnh và khoa học ngày nay chưa có biện pháp ngăn ngừa mỗi khi đã nhiễm vào cơ thể con người.

Đã đến lúc không thể thờ ơ được nữa, sự lên tiếng cảnh báo vẫn chưa đủ mà chúng ta đòi hỏi cơ quan chức năng phải có biện pháp ngăn chận kịp thời và quyết liệt hơn bằng một đạo luật bảo vệ sự sống của người dân trước hiểm họa “ô nhiễm” nghiêm trọng của thuốc trị bệnh giả, dỏm và thực phẩm độc hại trọng trong đó vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm tươi sống cũng như sản phẩm chế biến được xem là ưu tiên hàng đầu vì nó ảnh hưởng trực tiếp và thường xuyên lên cơ thể và sức khỏe con người.

Hồng Lê Thọ ( Tokyo )