NewYork Paris Hà Nội Khách thứ :

NIỀM TIN TƯƠNG LAI

     

Dinh Dưỡng Và Thai Nghén - BS Nguyễn Ý Ðức , Kiều bào Mỹ

Việt nam ta có câu chúc cho “Mẹ tròn con vuông”.

Ý giả là sản phụ sanh con thuận lợi, mẹ con đều khỏe mạnh. Được như vậy là nhờ ở nhiều yếu tố, trong đó sự dinh dưỡng của người mẹ đóng vai trò rất quan trọng.

Trước khi thụ thai, trong thời kỳ mang thai cũng như khi cho con bú mà mẹ có một dinh dưỡng đầy đủ thì cả mẹ lẫn con đều tránh được một số bệnh tật, rủi ro. Con sẽ tròn trĩnh đủ cân đủ lạng, cơ thể vẹn toàn, trí óc phát triển tốt. Cũng có trường hợp mẹ thiếu dinh dưỡng mà con vẫn tốt lành. Nhưng thực ra mẹ đã trả giá hơi đắt, vì thai nhi đã rút tỉa khá nhiều chất dinh dưỡng của mẹ.

Từ mấy thế kỷ trước, các danh y Hippocrates, Galen đã nhận thấy rằng một dinh dưỡng tốt ở người mẹ đều có thể tránh được nguy cơ xẩy thai, sanh con nhẹ ký.

Ngày nay mọi người đều đồng ý rằng ăn uống đầy đủ rất cần cho người mẹ không những trong thời kỳ có thai mà cả sau khi sanh, nuôi con với sữa mẹ.

Trong tam cá nguyệt đầu, thai cần nhiều chất đạm để con tạo ra các bộ phận, đặc biệt là não bộ. Trong tam cá nguyệt kế, cần nhiều calcium cho xương tăng tưởng và sản xuất tế bào máu. Tam cá nguyệt cuối nhu cầu chất dinh dưỡng quan trọng hơn nữa vì đây là lúc thai lớn lên gấp đôi. Do đó mẹ không những không nên cắt giảm ăn uống vào giai đoạn này mà còn phải gia tăng.

Khi vợ chồng manh nha ý định có con thì mẹ đã phải nghĩ tới chuyện ăn uống đủ chất bổ dưỡng. Vì ngay từ vài tuần lễ đầu của thai kỳ, đa số các bộ phận của thai nhi đã thành hình và cần vật liệu để tạo lập. Nếu kém dinh dưỡng con sẽ có tử vong cao; thai nhi nhỏ hơn, có nhiều rủi ro bệnh tật, khuyết tật thính thị giác, IQ thấp, chậm trí.

Cổ nhân nói mẹ ăn cho hai người, nhưng thực ra cũng chẳng cần phải ăn gấp đôi số lượng, vì đây chỉ là cho một người trưởng thành với một thai nhi bé nhỏ. Khi sanh mà con nặng khoảng 3,5 ký là tốt rồi.

Thay đổi cơ thể mẹ khi có thai.

Có rất nhiều thay đổi về cấu tạo và nhiệm vụ trong cơ thể người nữ mang thai. Sau đây là một số thay đổi quan trọng:

1-Hệ tuần hoàn.

Khối lượng máu từ tim ra tăng lên 1/3; tim co bóp tăng từ 70 lên 85 nhịp một phút; khối lượng máu từ 4 lít tăng lên 5,2 lít; khối huyết tương tăng 40%; hồng huyết cầu tăng 18%.

Các gia tăng này đều để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho người mẹ và thai nhi.

2- Tuyến nội tiết:

Có nhiều thay đổi đáng kể:

- Nang thượng thận tăng sản xuất kích thích tố aldosterone để giữ nước và muối trong cơ thể cho nhu cầu của thai nghén;

- Số lượng kích tố Estrogen và progesteron sản xuất từ noãn sào đều gia tăng để bảo vệ thai kỳ, tránh sẩy thai trong hai tháng đầu;

- Khi lượng đường huyết trong máu mẹ lên cao để nuôi thai thì insulin do tụy tạng tiết ra sẽ gia tăng để kiểm soát cao đường này;

- Tuyến yên tăng sản xuất prolactin để sữa được sản xuất nhiều cho con bú;

- Tuyến giáp hơi lớn để tăng hấp thụ khoáng iodine;

- Các kích thích tố Progesteron, estrogen, Human chorionic gonadotropins từ nhau thai được sản xuất để duy trì thai trong 8 tuần lễ đầu;

3- Hệ tiêu hóa:

Thực phẩm sẽ ở lại bao tử và ruột lâu hơn để được tiêu hóa kỹ hơn và sự hấp thụ chất dinh dưỡng cao hơn cho nhu cầu thai nghén. Vì thai nhi ép vào trực tràng, nhu động ruột chậm nên mẹ hay bị táo bón.

4- Cơ quan sinh dục :

Nhũ hoa căng lớn, sữa được sản xuất sữa để sẵn sàng nuôi con;

Dạ con tăng trưởng nặng khoảng một kí lô.

Nhu cầu chất dinh dưỡng.

Một chế độ dinh dưỡng đa dạng, cân bằng và hơi nhiều hơn thường lệ là điều cần thiết để có sức khỏe lành mạnh cho cả mẹ lẫn thai nhi.

Bình thường, người đàn bà cần 2200 Calories mỗi ngày.Theo các các nhà chuyên môn, khi có thai, mẹ cần thêm 300 Calories mỗi ngày, theo tỷ lệ từ 40 - 50% chất carbohydrates; 20% chất đạm và 30% chất béo. Các chất dinh dưỡng ăn thêm này là để đáp ứng cho nhu cầu tăng trưởng của thai nhi cũng như các thay đổi ở cơ thể người mẹ.

1-Chất đạm :

Đạm là vật liệu căn bản tạo ra các mô bào của thai nhi cũng như là nguồn dự trữ mà mẹ cần khi sanh con.

Bình thường, nhu cầu đạm mỗi ngày là 47 gram. Khi có thai, cần thêm 30 gr mỗi ngày, nhất là ba tháng cuối của thai nghén vì đây là lúc mà thai nhi tăng trưởng mạnh. Ngoài ra mẹ cũng cần nhiều đạm chất vì tử cung, tuyến vú và các tế bào khác đều lớn hơn để hỗ trợ thai nhi và cho con bú sau này.

Một nửa số đạm chất này phải có nguồn gốc động vật như thịt nạc, trứng, pho mát, gà, cá, sữa vì một số thực vật thiếu vài loại amino acids cần thiết.

Nếu mỗi bữa cơm, người mẹ uống hai ly sữa, ăn một miếng thịt nạc, miếng cá bằng lòng bàn tay kèm thêm các loại hạt, rau là đủ nhu cầu.

2- Carbohydrates:

Vì chất đạm được dùng cho sự tăng trưởng tế bào, nên carbohydrates sẽ là nguồn năng lượng chính cho mẹ và con. Đó là gạo còn cám, bánh mì, ngũ cốc khô tăng cường sinh tố, rau, trái cây, khoai.

3- Chất béo:

Rất cần thiết cho sự phát triển của não bộ thai nhi cũng như là nguồn năng lượng quan trọng cho cơ thể.

4- Nước:

Mẹ cần uống thêm nước để gia tăng khối lượng máu; tránh khô da, táo bón cũng như tạo ra nước đầu ối, che trở phôi thai nằm trong dạ con.

5-Sinh tố A:

Giúp da lành mạnh, thị giác tốt và xương mau lớn.

Nhu cầu giống như khi không có thai với 800 RE hoặc 360 IU mỗi ngày. Sinh tố này có đầy đủ trong cheese, sữa, bơ, các loại rau.

Tránh uống thêm quá nhiều vì rủi ro ngộ độc. Mẹ có thể bị nhức đầu, đau cổ, buồn nôn. Con dễ bị khuyết tật ở tai, tứ chi, rối loạn chức năng thận và hệ thần kinh.

Xin nhắc là thuốc trị bệnh Trứng cá da Accutane có hoạt chất là sinh tố A nên không được dùng khi mang thai..

6- Mẹ cần 1.5 mg thiamine, 1.6 mg Riboflavin, 17 mg Niacin mỗi ngày. Các sinh tố này đều có nhiều trong các loại thực phẩm như thịt động vật, các loại hạt, sữa, pho mát, rau nên ít khi xẩy ra tình trang thiếu.

Khi thiếu nhiều Thiamine thì hài nhi bị bệnh beriberi; thiếu Riboflavin mẹ hay ói mửa, con sanh thiếu tháng; ảnh hưởng của thiếu niacin chưa biết rõ.

7- Sinh tố E:

Mỗi ngày mẹ cần thêm 2 mg sinh tố E (nhu cầu bình thường là 8 mg). Số lượng này đều có trong các loại thực phẩm như dầu thực vật olive, dầu bắp, các loại hạt. Cho nên cũng không cần uống thêm.

8- Folate và sinh tố B.12 :

Thiếu cả hai sinh tố này thì khối lượng máu của mẹ sẽ giảm với hậu quả kém thực phẩm, dưỡng khí và đưa tới sẩy thai, con nhẹ ký.

Nếu chỉ thiếu folic acid thì hài nhi bị tật Nứt- đốt-sống (spina bifida), khuyết tật ống thần kinh (neural tube defect).

Mẹ cần gấp đôi bình thường, tức là cần 400 mcg mỗi ngày. Số lượng này được cung cấp đầy đủ trong rau lá xanh, trái cây, ngũ cốc khô tăng cường, gan động vật.

Nếu nhiều folic acid qúa thì sự hấp thụ khoáng chất zinc sẽ giảm.

Sinh tố B 12 ít khi thiếu vì có nhiều trong thực phẩm động vật. Nhu cầu bình thường là 2 mcg. Mẹ cần thêm 0.2 mcg mỗi ngày.

9-Sinh tố C :

Mẹ cần thêm 10 mg với nhu cầu bình thường là 60 mg mỗi ngày Chỉ uống một ly nước cam là ta có số lượng này.

Sinh tố C giúp thai nhi có xương và bộ răng lợi tốt lành, tăng cường hấp thụ khoáng sắt.

10-Sắt :

Sắt rất cần thiết cho việc sản xuất hồng huyết cầu.

Nhu cầu sắt cao nhất là vào đệ tam cá nguyệt, khi thai nhi cần để tồn kho, vì sáu tháng sau khi sanh nó uống sữa mẹ có rất ít sắt.

Con ít khi bị thiếu sắt vì bé lấy ở mẹ, nhưng mẹ sẽ thiếu nếu không ăn đầy đủ và mẹ sẽ bị bệnh thiếu máu.

Nhu cầu bình thường là 15 mg, khi có bầu mẹ cần thêm 15 mg mỗi ngày. Nếu mẹ cần uống thêm thì uống với nước chanh vì chất acid ascorbic giúp ruột hấp thụ sắt tốt hơn.

Sắt có nhiều trong thịt đỏ, rau spinach, đậu phụ, trái cây khô, các loại hạt, bánh và ngũ cốc khô được tăng cường khoáng.

11-Zinc:

Mẹ cần thêm 3 mg cho nhu cầu thường lệ 12 mg mỗi ngày. Zinc rất cần cho tế bào tăng trưởng. Thiếu khoáng này, con sẽ nhẹ ký, thần kinh kém phát triển.

12-Calcium và Phosphore:

Nhu cầu hai khoáng này rất quan hệ nhất là trong ba tháng cuối của thai nghén vì thai nhi cần nhiều để lớn, tạo xương và mọc răng. Mỗi giờ nó cần 13 mg calcium. Bình thường cần 800 mg calcium và phosphore; mẹ có thai cần 400 mg thêm.

Sữa là nguồn cung cấp calcium tốt nhất. Ngoài ra calcium còn có trong rau broccoli, cá salmon, sardine.

13- Iodine:

Nhu cầu iodine bình thường là 150 mg; có thai cần thêm 25 mg.

Thực ra thai nhi ít khi bị thiếu iodine ví nó rút rất nhiều iodine của mẹ. Nhưng nếụ thiếu iodine trầm trọng thì mẹ bị bướu tuyến giáp, kích thích tố tuyến này giảm và con bị ảnh hưởng lây. Con sẽ bị Đần Độn (Cretinism) với thiểu năng tuyến giáp bẩm sinh, chậm phát triển trí tuệ, da và nét mặt thô, xương thiếu khoáng chất và cơ thể lùn thấp. Trẻ này cần uống kích thích tố tuyến giáp suốt đời.

Tiêu thụ muối có cho thêm iodine và hải sản đều có thể tránh được thiếu khoáng chất này.

Ngoài ra, trong thời kỳ mang thai, người mẹ cũng có một vài hiện tượng đáng lưu ý sau đây.

Nôn ọe do thai nghén (Morning sickness).

Triệu chứng này thường xẩy ra vào tháng thứ nhất của thai kỳ, khi mà kích thích tố human chorionic gonadotropin lên cao để giúp noãn sào đã thụ tinh nằm ổ ở dạ con. Tới tháng thứ tư, kích thích tố này giảm thì nôn ọe cũng giảm theo.

Thực ra nôn có thể xẩy ra bất cứ giờ nào trong ngày, nhưng thường là vào sáng sớm, sau khi thức dậy. Có người bị nhiều, có người chỉ nôn qua loa ít ngày.

Không có thuốc để giải quyết “Cơn đau buổi sáng” này. Sau đây là vài mẹo vặt có thể giảm thiểu:

- Sáng dậy nên ăn một miếng bánh khô mặn;

- Ăn cơm làm nhiều bữa nhỏ;

- Tránh thực phẩm nhiều chất béo;

- Tránh chất kích thích bao tử như cay chua;

- Tránh thực phẩm có mùi dễ gây buồn nôn, như cá tanh; tránh rượu, cà phê, thuốc lá;

- Khi thấy muốn nôn ói thì hít thở một hơi xâu không khí trong lành rồi thư giãn tâm hồn.

Thèm món ăn bất thường.

Có bà bầu thèm ăn của chua, ăn kem, ăn thực phẩm mặn. Các cụ xưa bảo thèm ăn như vậy là dấu hiệu của có thai. Để thỏa mãn, có thể ăn một chút các món ăn đó cũng không sao. Nhưng cũng có người thèm chất không phải là có dinh dưỡng như đất sét, paraffin, tro, sơn, đá, quần áo. Đây là hiện tượng Dị thực (Pica).

Sự thèm khát này là có thật nhưng chưa có giải thích tại sao. Có ý kiến cho Pica là dấu hiệu của thiếu khoáng sắt vì khi dùng khoáng này thì không còn ăn dị thực đất sét nữa.

Pica đều không tốt cho cơ thể, nhất là khi có thai, nên cần được bác sĩ khám và thảo luận cách đối phó. Đã có trường hợp vì Pica mà mẹ nghẹt ruột, sưng phù; con sanh sớm, có nguy cơ tử vong.

Kết luận

Dinh dưỡng đóng vai trò rất quan trọng trong khi người mẹ có thai. Với thai nhi, đã có câu nói “Mẹ ăn sao thì con là vậy”. Mẹ dinh dưỡng tốt thì con bụ bẩm, kháu khỉnh, trí tuệ tinh anh, mau lớn. Còn mẹ thì khỏe mạnh, có sức nuôi con và vui với gia đình.