NewYork Paris Hà Nội Khách thứ :

NIỀM TIN TƯƠNG LAI

     

Trầm Cảm - Depression : Bệnh buồn sầu hay buồn chán - BS Nguyễn văn Đích , Kiều bào Mỹ

Thưa quý vị, mỗi ngày khi người Mỹ hay Âu châu gặp nhau, họ đều hỏi, “Hôm nay ông/bà làm sao?” Ta dịch là, “Ông/ Bà có khoẻ không?” Chữ “khoẻ” của ta thiên về cơ thể, chữ “làm sao?” của Âu Mỹ có tính chất toàn thể, hỏi về nhận định của người được hỏi về tình trạng chung của người đó.

Người hỏi muốn bày tỏ quan tâm giữa người và người; câu hỏi đã trở thành tục lệ trong giao tế, được lặp đi lặp lại, trở thành thông lệ, và người được hỏi cũng trả lời theo thông lệ: “Tôi cảm thấy tốt, còn ông/bà thì sao?” Tuy ai cũng hỏi và trả lời giống nhau nhưng nghe cách trả lời, người hỏi đánh giá được tình trạng tâm lý của người được hỏi và ước đoán thái độ của người đó.

Hàng ngày, nếu chúng ta không đăng ký và trả tiền để ngăn chặn sự quảng cáo bằng điện thoại thì chúng ta có thể nhận đuợc nhiều cú điện thoại không mong muốn của những người không quen biết đường đột gọi đến để mời chào dụ dỗ chúng ta mua hàng, đi du lịch giá rẻ, v.v.. Họ bao giờ cũng bắt đầu bằng cách hỏi thăm dò, “Hôm nay ông/bà thế nào?” Tùy theo cách chúng ta trả lời, nếu chúng ta nói tôi cảm thấy tốt, khỏe, thì họ sẽ tiến tới, nói liên tục, mồi chài đủ thứ; nếu chúng ta nói không cảm thấy tốt, họ sẽ rút lui ngay, hẹn lại một ngày khác thuận tiện hơn.

Tôi đưa ra hai thí dụ trên để đi vào một vấn đề quan trọng trong đời sống hàng ngày, đó là cảm nhận của mỗi người về bản thân mình và hệ quả của nó trong quan hệ với người khác.

Cảm nhận về bản thân, cũng giống như áp huyết, đường trong máu, mỡ trong máu, luôn luôn thay đổi, nhưng với đa số mọi người, sự thay đổi ở trong một giới hạn gọi là “bình thường”, phù hợp với đời sống bình thường. Ở một số người, cảm nhận về bản thân thấp hơn bình thường, gọi là trầm cảm.

Trầm cảm là gì ?

Trầm cảm là một tình trạng bệnh lý mà người bệnh cảm thấy mệt mỏi, buồn bã chán nản, thấy cuộc sống vô nghĩa, không có hứng thú, không thiết sống, không có hy vọng, họ mất tự tin, cảm thấy mình thấp kém và bất lực.

Trầm cảm là bệnh khá phổ biến, nhiều khi bị bỏ sót, không được chẩn đoán ra. Ước tính có 17 triệu người Mỹ bị trầm cảm, con số này cũng bằng số người bị tiểu đường. Trầm cảm xảy ra ở mọi người, mọi lứa tuổi. Phụ nữ hay bị trầm cảm hơn nam giới. Ít nhất 10% những người đi khám bệnh ngoại trú bị trầm cảm, ngay cả một nửa số người mang bệnh cơ thể cũng có những nét trầm cảm.

Trầm cảm biểu lộ như thế nào ?

Người bị trầm cảm thường có vẻ khiêm tốn, ít hoạt động, nói nhỏ và chậm, ngồi yên, thụ động, nhìn xuống. Hội Tâm thần Hoa kỳ kiệt kê những triệu chứng của trầm cảm như sau:

- Hàng ngày buồn bã, đặc biệt vào buổi sáng,

- Không còn thích thú trong những công việc mà họ vốn ưa thích,

- Giảm hoặc tăng cân nặng,

- Khó ngủ hoặc ngược lại, ngủ nhiều,

- Chậm chạp, hoặc ngược lại dễ bị kích thích, dễ gắt gỏng nóng giận,

- Mệt mỏi, ngay từ buổi sáng,

- Cảm thấy không có giá trị hoặc có mặc cảm tội lỗi,

- Không tập trung suy nghĩ được hoặc không quyết định được,

- Nghĩ đến sự chết hoặc có ý định tự tử.

Có những mức độ nặng nhẹ khác nhau, có người chỉ mệt mỏi chậm chạp, làm việc kém hiệu năng, có người chỉ ở nhà, không giao dịch với ai, khóc một mình, không ăn không ngủ được, gầy ốm suy kiệt, có người muốn tự tử, tìm cách tự tử, có người tự tử chết.

Chẩn đoán

Như đã nói, trầm cảm là một bệnh có biểu lộ tinh thần nên không có xét nghiệm nào cho thấy trầm cảm. Chẩn đoán dựa vào thăm khám tinh thần qua tiếp xúc giữa thầy thuốc và bệnh nhân. Tiêu chuẩn để chẩn đoán là thời gian kéo dài của triệu chứng (trên 2 tuần) và ảnh hưởng của các thay đổi tinh thần trên đời sống của người bệnh, nghĩa là hậu quả đối với bản thân và quan hệ xã hội.

- Hậu quả đối với bản thân: người bệnh không ăn ngủ được bình thường, bị gầy ốm, giảm thể lực và sự minh mẫn, không tập trung suy nghĩ được do đó học hành và làm việc kém, không thăng tiến được;

- Hậu quả trong quan hệ: gia đình không vui vẻ, mất hạnh phúc, không yên tâm làm ăn, con cái không được dạy dỗ tốt, giảm ý chí cầu tiến;

- Hậu quả trong việc làm: chậm chạp, kém năng suất, thiếu sáng kiến, mất ngày công lao động, không hòa hợp với người cùng làm, cãi cọ, gây sự, kiện tụng, giận dỗi.

Tuy không có xét nghiệm để xác định trầm cảm, bác sĩ bao giờ cũng làm xét nghiệm để loại bỏ các bệnh cơ thể có thể cho triệu chứng giống trầm cảm như thiếu máu, tiểu đường, bệnh của tuyến giáp trạng.

Điều trị

Tuy có nhiều hậu quả nặng nề, trầm cảm lại là bệnh có thể chữa được. Nếu được điều trị, người bị trầm cảm sẽ trở lại vui vẻ, hết than đau những bệnh không giải thích được bằng một nguyên nhân thể xác. Sự điều trị có thể thay đổi hẳn con người trầm cảm, làm cho họ vui vẻ yêu đời, sống có ý nghĩa và có ích lợi cho bản thân và mọi người.

Có nhiều loại thuốc chữa trầm cảm:

- Các thuốc mới (SSRI), làm tăng chất serotonin, là một chất cần trong sự dẫn truyền các tín hiệu thần kinh trong não bộ, thuốc rất hữu hiệu, ít tác dụng phụ;

- Các chất chống trầm cảm cũ thuộc nhóm tricyclic antidepressants (TCA), tác động trên nhiều chất trung gian hóa học trong sự dẫn truyền tín hiệu thần kinh, cũng hữu hiệu nhưng có nhiều tác dụng phụ, ít còn được dùng;

- Các thuốc ức chế monoamine oxidase (MAO), dùng trong những trường hợp đặc biệt;

- Các thuốc ổn định thái độ tự cảm (mood stabilizing) như tegretol, valproic axid, lithium và các thuốc chống loạn thần mới như olanzapine, risperidone dùng trong trường hợp trầm cảm trong rối loạn luỡng cực (bipolar disorders).

Điều trị tâm lý (psychotherapy) cũng có kết quả nhưng chậm, khi cần có thể kết hợp sau khi đã bắt đầu điều trị bằng thuốc.

Các điều đáng chú ý là:

- Các thuốc chữa trầm cảm đều có thể có một ít tác dụng phụ, nên cần bắt đầu bằng liều nhỏ rồi tăng dần, cần chọn thuốc phù hợp với từng người,

- Thuốc không có tác dụng ngay, trong tuần lễ đầu, bệnh nhân chỉ cảm thấy dễ ngủ, sau 3 tuần mới dần dần thấy khoẻ hơn, bớt buồn chán, dễ chấp nhận các khó khăn thử thách hơn, bệnh nhân nhiều khi không nhận thấy sự khác biệt, chỉ có người chung quanh nhận thấy, do đó, bệnh nhân không biết lợi ích của thuốc,

- Bệnh nhân cần điều trị lâu dài, ít nhất 6 tháng, nhiều khi lâu hơn nữa vì bệnh dễ bị tái phát nếu ngưng thuốc.

Tóm lại, trầm cảm là:

- Bệnh phổ biến, có hậu quả rõ rệt đối với bệnh nhân, gia đình và xã hội,

- Là bệnh chữa được, kết quả của việc trị liệu rất khích lệ,

- Người ta thường có thành kiến, cho tâm thần là một bệnh xấu nên không chấp nhận, tìm cách lẩn tránh, không chấp nhận bệnh,

- Nhiều khi không được nhận biết, bị bỏ sót, nhầm lẫn với các bệnh cơ thể khác khiến đi tìm và chữa các bệnh cơ thể không có hiệu quả,

- Bệnh nhân không hợp tác với điều trị, vì người bị trầm cảm thụ động, không tìm đến điều trị, thuốc lại có tác dụng phụ, không có tác dụng ngay lập tức, và phải uống thuốc liên tục trong nhiều tháng hay nhiều năm.

Kết luận

Ta cần lưu ý đến khía cạnh tinh thần của đời sống, giữ gìn sức khoẻ tinh thần, vốn rất quan trọng. Phải gạt bỏ thành kiến vốn cản trở sự hành động và tiến bộ, phải tổ chức để khuyến khích, duy trì sự điều trị trầm cảm.

Mô hình gia đình cổ truyền của Việt Nam là một cơ cấu tốt, nâng đỡ nhau giảm bớt trầm cảm nhất là đối với người lớn tuổi. Trong xã hội Mỹ, có các nhóm hỗ trợ và các hội chuyên nghiệp (như Hội Tâm thần Quốc gia - National Mental Health Association - và National Alliance for the Mentally Ill), có mục đích giáo dục quần chúng và nâng đỡ những người có vấn đề về tinh thần.

Có Phải Bịnh Trầm Cảm Là Bịnh Tâm Thần Hay Không - BS Thái Minh Trung , Kiều bào Mỹ

“Giết nhau chẳng cái lưu cầu,

Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa”

Ðó là lời cay đắng than thân trách phận của người cung nữ bị đấng quân vương phế bỏ mà trở nên héo hon, chết dần mòn trong buồn rầu, sầu tủi... Trong cộng đồng người Việt mình, buồn rầu trầm cảm là bệnh khá phổ biến, nhưng lại ít được nhận ra và điều trị. Tại sao?

Xin mời quý thân hữu đọc bài viết rất đầy đủ về bệnh Trầm Cảm sau đây của bác sĩ Thái Minh Trung, một thầy thuốc có huấn luyện chuyên môn về bệnh Tâm Thần. Bác sĩ Trung đang hành nghề tai tiểu bang California và cũng đã viết nhiều bài giá trị, dễ hiểu về lãnh vực tâm linh, tình cảm.

Những con số thống kê

Các nghiên cứu của Hội Y Tế Thế giới (World Health Organization) tiên đoán rằng tới năm 2020 thì bịnh trầm cảm sẽ trở thành căn bịnh thứ nhì dẫn đến khiêm khuyết (disability) trên toàn thế giới và căn bịnh thứ nhứt dẫn đến khiêm khuyết ở những nước đang phát triển.

Bịnh trầm cảm là một bịnh rất phổ biến. Cứ 100 người có đến 10 người bị bịnh này và xác suất bị bịnh này trong đời người (lifetime prevalence) có thể đến 15%. Hiện thời chưa có những thống kê bịnh trầm cảm ở người Việt Nam. Có nhiều nghiên cứu cho thấy rằng cuộc sống gây căng thẳng tinh thần hay những biến cố khủng hoảng trong cuộc sống là nguyên nhân gây bịnh trầm cảm.

Theo kinh nghiệm lâm sàng của tác giả thì bịnh trầm cảm xảy ra ở người Việt Nam có xác suất cao hơn người Mỹ bản xứ. Lý do là đa số người Việt Nam sống ở hải ngoại là họ đã trải qua rất nhiều biến cố khủng hoảng trong đời sống. Những khủng hoảng đó là chiến tranh Việt Nam và nhiều khó khăn đáp ứng với văn hóa nước ngoài và đời sống kinh tế không tốt đẹp.

Ta có thể ước lượng rằng xác suất của thế hệ thứ nhứt, sanh trưởng tại Việt Nam và di tản định cư ở ngoại quốc, bị trầm cảm có thể gấp 2 hay 3 lần người bản xứ. Ðó là thế hệ đã trải qua rất nhiều biến cố khủng hoảng như đã kể phần trên. Một số người vì mưu sinh sống còn đã vượt qua được những triệu chứng trầm cảm lần đầu tiên. Nhưng vài năm sau đó, hệ thống thần kinh bị suy nhược sẵn, chỉ với một biến cố nhẹ hơn trong cuộc sống (thí dụ như xích mích vợ chồng hoặc con cái, rời nhà sống riêng) cũng có thể gây ra bịnh trầm cảm nặng.

Thế hệ thứ 1,5 sinh tại Việt Nam và định cư theo cha mẹ ở nước ngoài lúc còn nhỏ, cũng có những căng thẳng riêng của họ. Ðó là những mâu thuẫn về nguồn gốc của mình. Họ không hẳn là người Việt cũng không hẳn là người bản xứ hoàn toàn nên có nhiều khó khăn trong việc đáp ứng kết hợp văn hóa bản xứ với văn hóa của gia đình. Nếu theo phong tục của bạn thì về nhà phụ huynh không vừa lòng, còn theo phong tục gia đình thì khó đáp ứng được với bạn bè cùng trang lứa.

Những dấu hiệu của bịnh trầm cảm

Người Á Châu ít chịu công nhận những triệu chứng của bịnh trầm cảm vì những lý do văn hóa. Hiện thời có rất nhiều sự hiểu lầm về bịnh trầm cảm. Xã hội tin rằng những người bị trầm cảm là những người lười biếng với ý chí bị suy kém. Người ta còn tin rằng bịnh trầm cảm là một bịnh tưởng tượng vì bác sĩ gia đình không tìm được nguyên do thể chất của những triệu chứng đau nhức của bịnh trầm cảm. Một số khác nghĩ rằng bịnh nhân trầm cảm có “tánh xấu” vì họ hay bực bội cau có gây gổ với mọi người.

Bịnh trầm cảm không giống như bịnh cảm, ta ngủ một đêm sáng thức dậy thấy mệt mỏi và nghẹt mũi. Bịnh trầm cảm xảy ra rất chậm cho nên đôi lúc bịnh nhân không nhìn ra được những dấu hiệu của nó vì những triệu chứng trầm cảm tăng từ từ. Ðến lúc bịnh trầm cảm trở thành nặng, người bịnh không đi làm được hay không sinh hoạt gia đình bình thường thì mới tìm bác sĩ để trị bịnh.

Vì những lý do trên mà những bịnh nhân Á châu khi khai những triệu chứng trầm cảm, họ ít khi chịu khai những triệu chứng tâm lý mà liệt khai những triệu chứng thể xác, đánh lạc hướng chẩn đoán của bác sĩ gia đình. Theo cách chẩn đoán của khoa tâm thần thì hai triệu chứng chính để chẩn đoán trầm cảm là: buồn chán (depression) và mất sự thích thú trong đời sống (anhedonia). Những triệu chứng này ít thấy những bịnh nhân Á châu than phiền. Nếu có than phiền về sự mất thích thú thì họ hay ghép vào đó một nguyên nhân chính đáng như cơ thể bị đau nhức kinh niên chẳng hạn. Vì thế một số đông bịnh nhân Á châu không được chẩn đoán và trị liệu đúng mức.

Những triệu chứng trầm cảm thường được thấy ở những bịnh nhân Á châu là những cơn đau nhức bất thường, giấc ngủ bị thay đổi (mất ngủ hay ngủ li bì), người hay mệt kinh niên, xáo trộn trong khẩu vị (ít ăn, xuống cân), hay quên, không chăm chú được, người hay “tự ái” dễ bị bực bội (irritability). Ngay cả triệu chứng bực bội cũng được che đậy qua những lý do như những căng thẳng ở sở làm, con cái không vâng lời, người hôn phối không đối xử tốt với mình. Chính vì thế mà khi mới nghe bịnh nhân kể lể, bác sĩ gia đình ít khi nghĩ đến bịnh trầm cảm. Thật ra những căng thẳng trong cuộc sống ai cũng có nhưng đối với người bị trầm cảm căng thẳng được cảm nhận nhiều hơn bình thường.

Nghiên cứu gần đây cho thấy rằng khoảng 60% bịnh nhân trầm cảm bị đau nhức trong người. Gần 1/3 (30%) bịnh nhân đau kinh niên bị bịnh trầm cảm. Ở nước Mỹ, hàng năm có khoảng 400 triệu lần khám bác sĩ (clinic visits) thì gần phân nửa là vì đau nhức. 90% những bịnh nhân có những triệu chứng tâm lý được chẩn đoán đúng mức. Nhưng chỉ có 50% bịnh nhân trầm cảm có triệu chứng thể xác chỉ được bác sĩ gia đình chẩn đoán và nhận ra bịnh trầm cảm. Nếu những bịnh nhân này có kèm theo những bịnh về thể xác thì xác xuất bịnh trầm cảm nhận ra chỉ có 20% mà thôi .

Theo cách chẩn đoán của khoa tâm thần thì chỉ cần 2 tuần lễ có những triệu chứng trầm cảm kể trên thường xuyên ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình và xã hội là hội đủ điều kiện của bịnh trầm cảm. Tuy nhiên trên thực tế, bịnh nhân chờ đợi rất lâu, cả tháng, có khi cả năm trời, mới chịu đi khám bác sĩ. Thời gian chần chờ chữa trị lâu hơn ở bịnh nhân Á châu vì họ rất sợ bị gán cho cái bịnh tâm thần (mental illness). Khi chần chờ lâu thì hệ thống thần kinh bị suy thoái nhiều gây rắc rối cho việc chữa trị. Ngoài ra khi bịnh trầm cảm trở nên nặng thì bịnh nhân thường có những ý nghĩ chán đời, không muốn sống và thậm chí có ý định tự tử.

Bịnh trầm cảm có cơ sở thần kinh học (neurology)

Các nghiên cứu chụp hình não mới nhất cho thấy rằng bịnh trầm cảm không phải là một bịnh “tưởng tượng” vì nó gây ra rất nhiều biến đổi trong sự hoạt động của não bộ. Những cơ cấu thần kinh (brain structures) và mạch thần kinh (neural circuits) điều hòa những triệu chứng căng thẳng thể xác được dùng chung với bịnh trầm cảm. Chính vì thế mà khi bị trầm cảm, bịnh nhân có nhiều triệu chứng thể xác lẫn tâm lý. Cái khác biệt là bịnh nhân Á châu loại ra những triệu chứng tâm lý, chỉ khai báo với bác sĩ những triệu chứng thể xác.

Những nghiên cứu chụp hình bằng PET scan hay MRI cho thấy rằng khi bị trầm cảm, hệ thống limbic (limbic system) hoạt động quá độ từ đó sinh ra những triệu chứng căng thẳng tinh thần như cau có, lo âu phiền não, mất ngủ... Hệ thống cortex (cortical system) hoạt động yếu, sinh ra những triệu chứng như thiếu sự chăm chú, mất khả năng suy xét, mất sự nhậy bén lanh lẹ... Khi bịnh trầm cảm được điều trị thì những mất quân bình kể trên được đổi chiều và quân bình trở lại.

Khi bị trầm cảm lâu ngày, sự căng thẳng thường xuyên sẽ tạo ra quá nhiều kích thích tố (glucocorticoids) làm giảm những chất nuôi dưỡng tế bào thần kinh (Brain derived nerve growth factor-BDNF). Khi glucocorticoids tăng và BDNF giảm thì sẽ làm hư hỏng một số tế bào thần kinh. Nhóm tế bào thần kinh kết cấu hippocampus rất nhậy cảm với glucocorticoids. Khi tế bào chết dần, cấu trúc này bị thoái hóa (atrophy). Hippocampus rất quan trọng trong việc thành lập trí nhớ ngắn hạn. Vì thế khi bị stress hay trầm cảm lâu ngày không trị liệu thì trí nhớ sẽ bị ảnh hưởng xấu. Khi lạm dụng xì ke ma túy cũng có tác động tương tự lên hippocampus.

Nguy cơ của bịnh trầm cảm không được điều trị đúng mức

Có rất nhiều nguy cơ xảy ra khi bịnh trầm cảm không được điều trị đúng mức. Nguy cơ ở cá nhân thì như đã kể ở phần trên là khi bị căng thẳng (stress) lâu ngày thì sẽ làm hư hỏng nhiều phần của não bộ. Mới đầu ta chỉ thấy xáo trộn trong sự phân phối hoạt động của các vùng trong não bộ, như vùng limbic hoạt động quá độ còn vùng cortex hoạt động kém hơn. Ðể lâu, sự mất quân bình này dẫn đến xáo trộn về chất thần kinh giao nối (neurotransmitter imbalance) và sau đó dẫn đến xáo trộn về nội tiết (endocrine imbalance). Khi nội tiết bị xáo trộn thì hiện nay chưa có cách trị hữu hiệu vì khoa học chưa phát minh ra thuốc trị nội tiết mất quân bình.

Bịnh trầm cảm ảnh hưởng xấu đến các bịnh thể xác khác một cách gián tiếp và trực tiếp. Căng thẳng của chứng trầm cảm làm bịnh nhân cảm thấy đau nhức nhiều hơn người không bị trầm cảm. Khi uống thuốc thì họ bị phản ứng phụ nhiều hơn vì sự căng thẳng làm giảm sự chịu đựng của cơ thể, do đó mà các bịnh khác không được trị đúng mức. Khi bị trầm cảm nặng, bịnh nhân bị chán chường nên bỏ bê việc uống thuốc thường xuyên, không tập thể dục và ăn uống bất thường làm các bịnh như tiểu dường hay cao huyết áp nặng hơn. Ngoài ra trầm cảm cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống miễn nhiễm (immune system), các bịnh tim mạch, đường ruột, hô hấp bằng cách làm triệu chứng của các bịnh này nặng hơn.

Ở nam giới, bịnh trầm cảm không được chữa trị sẽ dễ dàng dẫn đến lạm dụng rượu, hút thuốc và xì ke ma túy. Sự nghiện ngập hút xách sẽ làm bịnh trầm cảm nặng hơn. Nó sẽ dẫn đến sự sụp đổ gia đình rất nhanh. Nhiều nghiên cứu cho thấy sự bạo hành gia đình tăng lên với người bị trầm cảm. Nguy cơ tử vong khi tự tử rất cao ở nam giới bị trầm cảm. Nguy cơ này cao hơn nếu bịnh nhân trầm cảm hút xách và mất tự chủ. Ngoài ra còn có nguy cơ làm hại sinh mạng kẻ khác, giết con cái hay người hôn phối của mình.

Trong lúc say rượu và tuyệt vọng

Về gia đình thì người bịnh trầm cảm bỏ bê sinh hoạt gia đình, thích ở trong phòng một mình, hay gây gổ với người thân, họ bị tự ái quá độ, tình cảm mất quân bình, dễ la lối khóc lóc vì thế mà quan hệ gia đình rất căng thẳng. Một số người mất sự thích thú tình dục, không thích chưng diện, không chăm sóc người phối ngẫu, làm quan hệ hôn nhân bị lung lay. Nếu là phụ huynh thì sự chăm sóc con cái bị suy giảm, khiến người phối ngẫu phải làm việc nhiều hơn, đó cũng là một nguyên nhân đưa đến sự xung đột trong gia đình. Phụ huynh bị trầm cảm không dằn được cơn bực bội hay la mắng thậm chí đánh đập con cái rồi sau đó họ bị mặc cảm tội lỗi dày vò. Nguy cơ ly dị ở người bị trầm cảm cao hơn bình thường.

Người bịnh trầm cảm không đáp ứng được với những nhu cầu của công việc. Họ dễ bị căng thẳng khi bị đồng nghiệp hay chủ sở phê bình. Họ làm việc chậm hơn người thường vì thiếu chăm chú và hay quên. Họ hay mất ngủ và sáng vào sở uống cà phê thật nhiều. Lạm dụng cà phê sẽ làm cơ thể căng thẳng hơn và sau đó họ sẽ lâm vào trường hợp mệt mỏi và hay bị lo âu quá độ. Lâu ngày tinh thần sẽ sa sút nhiều hơn và những căn bịnh thể xác như nhức mỏi, nhức đầu sẽ càng ngày càng gia tăng. Ðến mức độ nào đó họ sẽ mất khả năng làm việc hữu hiệu và bị đuổi sở. Khi mất việc làm thì bịnh trầm cảm sẽ qua giai đoạn nặng, có nguy cơ tự tử.

Nói tóm lại những cảnh địa ngục trần gian sẽ tránh được khi bịnh trầm cảm được chẩn đoán và điều trị đúng mức.

Cách phòng ngừa và trị liệu bịnh trầm cảm

Bịnh trầm cảm không phải lúc nào cũng phải được trị bằng thuốc men. Ta có thể thay đổi cuộc sống và lối suy suy nghĩ để tránh bịnh trầm cảm trở thành nặng. Một số người khi thay đổi cách suy nghĩ và lối sống thì căng thẳng (stress) giảm đáng kể, từ đó mà các triệu chứng trầm cảm bớt đi và có thể hết. Thí dụ như giảm công việc lại, làm ít giờ hơn, có nhiều thời gian sinh hoạt với gia đình, giành nhiều thời giờ đối thoại với người phối ngẫu để san bằng cái hố hiểu lầm. Nếu là sinh viên thì giảm số giờ học (units), tăng thời gian nghỉ ngơi và ăn ngủ điều độ. Tránh lạm dụng cà phê hay rượu. Tập thể dục thể thao cũng có khả năng làm giảm trầm cảm. Tập thể thao thường xuyên sẽ làm tăng chất BDNF, giúp tế bào thần kinh sống lâu hơn.

Tìm hiểu tôn giáo để học hỏi những cách sống cho tâm hồn thư thảng cũng là một cách phòng ngừa trầm cảm. Nhiều nghiên cứu cho thấy tâm tĩnh lặng (mindfulness) rất hữu hiệu để trị lo âu và trầm cảm. Khi suy nghĩ lo âu nhiều quá thì ta tạo căng thẳng cho hệ thần kinh. Khi hệ thần kinh làm việc quá độ thì sẽ gây ra những triệu chứng lo âu và mất trí nhớ. Tâm tĩnh lặng tạo ra những thay đổi tốt cho não bộ và được thể hiện qua sơ đồ điện não (EEG) và chụp hình PET scan. Căng thẳng kinh niên sẽ gây ra bịnh trầm cảm. Tinh thần cạnh tranh, hơn thua tạo ra rất nhiều căng thẳng và không thích hợp với bịnh trầm cảm. Nếu người có di truyền trầm cảm, căng thẳng sẽ làm trầm cảm phát triển sớm hơn. Những pháp môn tôn giáo như niệm Phật, cầu nguyện Chúa, hay thiền là những cách gián tiếp hay trực tiếp dẫn đến tâm tĩnh lặng.

Tâm lý học có những phương pháp tâm lý trị liệu như tâm lý trị liệu nâng đỡ (supportive therapy), tâm lý trị liệu nhận thức và hành động (cognitive behavioral therapy) để giúp người bị trầm cảm vượt qua những cơn khủng hoảng tinh thần và giúp họ hội nhập vào gia đình và xã hội. Tâm lý trị liệu dùng tâm tĩnh lặng (mindful therapy) rất thành công ở bịnh nhân bị cả ung thư lẫn trầm cảm. Trong bịnh trầm cảm nặng, tâm lý trị liệu phối hợp với dược phẩm công hiệu hơn là trị thuốc một mình.

Nói về cách trị liệu bằng thuốc thì hiện nay nhóm thuốc làm tăng Serotonin (Selective Serotonin Reuptake Inhibitor- SSRI) rất phổ biến trong việc trị liệu bịnh trầm cảm. Nhóm thuốc này gồm có Fluoxetine (Prozac), Paroxetine (Paxil), Sertraline (Zoloft), Citalopram (Celexa) và Escitalopram (Lexapro). Những loại thuốc trên có thể đều có công dụng bằng nhau nhưng khác về phản ứng phụ. Tùy theo triệu của chứng của bịnh nhân mà bác sĩ chọn lựa thuốc thích hợp. Ngoài ra còn có nhóm thuốc ảnh hưởng Serotonin và Norepinephrine (Serotonin-Norepinephrine reuptake inhibitor- SNRI). Nhóm thuốc này gồm có Venlafaxine (Effexor) và Duloxetine (Cymbalta). Còn nhiều thuốc nữa mà không tiện liệt kê ra hết. Càng ngày càng có nhiều loại thuốc mới, nên việc trị liệu bịnh trầm cảm tương đối hữu hiệu hơn trước đây.

Những điều cần quan tâm khi trị bịnh trầm cảm bằng thuốc

Nhiều nghiên cứu thuốc trầm cảm ở trẻ em cho thấy rằng loại thuốc này có thể tăng ý muốn tự vận, nhưng chưa có trường hợp hoàn tất tự tử (suicide completion). Số lượng rủi ro này rất nhỏ, tuy nhiên FDA vẫn ra thông báo để cho các bác sĩ đề phòng. Các nhà nghiên cứu cho rằng một số trẻ có ý muốn tự vận bị chẩn đoán lầm. Những em này có thể bị bịnh tình cảm lưỡng cực (bipolar affective disorder), khi uống thuốc trầm cảm, trong người thấy bứt rứt khó chịu hay bực bội nhiều hơn mà không tự chủ được. Các giai đoạn mà bác sĩ cần theo dõi bịnh nhân kỹ là lúc khởi đầu uống thuốc và khi điều chỉnh thuốc với liều cao hơn. Nếu bịnh nhân uống thuốc trầm cảm mà cảm thấy khó chịu, có những cơn vui quá độ (mania), cảm thấy năng lực tăng thật nhiều, không cần ăn và ngủ, thì nên dừng thuốc và thông báo bác sĩ tức thời. Nói chung, thuốc trị trầm cảm rất an toàn.

Tóm lại

Bịnh trầm cảm không phải là một bịnh tưởng tượng như người ta thường nghĩ. Người bịnh trầm cảm không thể dùng ý chí để vượt qua căn bịnh này mà cần phải được trị liệu đúng cách. Bịnh này cũng không chỉ là bịnh tâm thần vì nó có nhiều triệu chứng về thể xác. Bịnh trầm cảm có cơ sở thần kinh và sinh lý học (Neurobiology). Nếu không trị đúng mức, bịnh này sẽ gây tai hại cho cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội.