NewYork Paris Hà Nội Khách thứ :

NIỀM TIN TƯƠNG LAI

     

Trình độ học vấn của bộ trưởng Việt Nam , Mỹ , Úc và Na Uy - GS TS Nguyễn Văn Tuấn , Kiều bào Úc

Một trong những đặc điểm đáng chú ý trong giới quan chức Việt Nam là họ thường có bằng cấp rất cao. Thật vậy, chỉ nhìn qua những danh thiếp của cấp thứ trưởng, vụ trưởng, hay thỉnh thoảng đọc báo về chức danh của các bộ trưởng, chúng ta thấy họ thường là tiến sĩ hay thạc sĩ. Ngược lại, đối với giới quan chức nước ngoài, ấn tượng tôi có qua các danh thiếp của họ là trình độ học vấn trung bình, thường thường là bậc cử nhân, rất hiếm thấy bộ trưởng các nước phương Tây có bằng tiến sĩ. Nhưng đó chỉ là ấn tượng, chứ chưa có bằng chứng nào để so sánh cụ thể. Theo tôi biết, cho đến nay, vẫn chưa có ai làm thống kê để biết trình độ học vấn của quan chức Việt Nam và ngoại quốc như thế nào. Có được những thông tin này tôi thiết nghĩ cũng thú vị vì nó cung cấp cho chúng ta một cái nhìn tổng quan về trình độ của các quan chức chính phủ.

Tôi chọn các quan chức cấp bộ trưởng, vì thông tin về các vị này tương đối đầy đủ hơn. Các thông tin về chức vụ, năm sinh, trình độ học vấn của các bộ trưởng ( hay quan chức tương đương cấp bộ trưởng ) của Việt Nam, Mĩ, và Úc được thu thập cho từng cá nhân. Riêng trường hợp Việt Nam, tôi còn thu thập thêm thông tin về quê quán để xem sự phân phối giữa 3 miền ra sao.

Kết quả cho thấy nội các của Việt Nam có 26 thành viên, ít hơn Úc ( 28 người ), nhưng đông hơn Mĩ ( 23 người ). Tuy nhiên, có sự mất cân đối nghiêm trọng về phân bố giới tính. Trong số 26 thành viên nội các chính phủ Việt Nam, chỉ có 1 nữ duy nhất: đó là bà Nguyễn Thị Kim Ngân. Trong khi đó, nội các chính phủ Mĩ có đến 7 người là nữ, và con số này chiếm gần 1/3 chính phủ Obana, nhiều hơn cả chính phủ Úc với 4/28 thành viên (hay 14%) là nữ giới.

Về tuổi tác

Các bộ trưởng trong chính phủ Việt Nam tương đối cao tuổi hơn so với đồng nghiệp của họ ở Mĩ và Úc. Tuổi trung bình của các bộ trưởng Việt Nam là 59, kế đến là Mĩ ( tuổi trung bình 56 ) và Úc ( 50 tuổi ). Người trẻ nhất trong chính phủ Việt Nam là ông Hoàng Trung Hải ( 50 tuổi ), nhưng người trẻ tuổi nhất trong chính phủ Úc chỉ 33 tuổi ( Kate Ellis, bộ trưởng thể thao ), còn bộ trưởng trẻ nhất của Mĩ cũng chỉ 42 tuổi ( ông Peter R. Orszag, giám đốc ngân sách quốc gia, với bằng tiến sĩ từ London School of Economics ).

Về trình độ học vấn

Chính phủ Việt Nam có trình độ cao nhất so với Mĩ và Úc. Trong số 26 thành viên trong nội các chính phủ Việt Nam, có đến 50% (13 người) có bằng tiến sĩ, 10 người có bằng cử nhân, và 3 người có bằng thạc sĩ. Phân tích kĩ hơn thì tôi thấy trong số 13 tiến sĩ bộ trưởng Việt Nam, phần lớn là tiến sĩ về kinh tế ( 7 người, gồm các ông Nguyễn Sinh Hùng, Phạm Khôi Nguyên, Vũ Huy Hoàng, Lê Doãn Hợp, Trần Văn Tuấn, Cao Đức Phát, và Nguyễn Văn Giàu ), phần còn lại là xã hội học ( ông Nguyễn Quốc Triệu ), luyện kim ( ông Phạm Gia Khiêm ), điều khiển học ( ông Nguyễn Thiện Nhân ), luật ( ông Hà Hùng Cường ), kiến trúc ( ông Nguyễn Hồng Quân ), và toán lí ( ông Hoàng Văn Phong ).

Ở Úc, trong số 28 thành viên chính phủ, chỉ có 1 người duy nhất có bằng tiến sĩ ( ông Craig Emerson ), 5 người có bằng thạc sĩ, và đa số (22 người ) có bằng cử nhân. Nội các chính phủ Obama có trình độ học vấn cao hơn Úc một chút, nhưng vẫn còn thua xa so với Việt Nam. Trong số 23 thành viên, 7 người có bằng tiến sĩ, 8 người với bằng thạc sĩ, và 8 người với bằng cử nhân.

Nếu [tạm] tính Tiến sĩ ( Ph.D ) là 10 năm theo học đại học, thạc sĩ 6 năm, và cử nhân 4 năm, thì tính trung bình mỗi bộ trưởng hay thành viên trong nội các chính phủ Việt Nam có 7,2 năm học đại học, kế đến là Mĩ ( 6,5 năm ), và thấp nhất trong nhóm là Úc ( 4,6 năm ).

Phân tích theo vùng.

Nói đến Việt Nam là phải nói đến chính trị vùng. Tình hình phân bố các thành viên và trình độ học vấn trong nội các chính phủ Việt Nam không đồng đều giữa 3 vùng. Trong số 26 thành viên, đa số là từ miền Bắc ( 12 người, hay 46% ), miền Trung và miền Nam mỗi miền có 7 người. Điều thú vị ở đây là trong số 12 thành viên từ miền Bắc, có đến 8 người (67%) có bằng tiến sĩ. Số thành viên có bằng tiến sĩ từ miền Trung là 3/7 (43%), và miền Nam là 2/7 (28%).

Vài nhận xét

Trong loạt bài về những bất cập trong việc đào tạo tiến sĩ trên Sài Gòn Giải Phóng, tác giả viết như sau: “Nhà khoa học, nhà quản lý các nước cũng sẽ rất ngạc nhiên khi biết được trong đội ngũ cán bộ của ta hiện nay, tỷ lệ Tiến sĩ rất cao! […] Trên các nước, Tiến sĩ nếu có trong bộ máy quản lý nhà nước thì cũng chỉ chiếm tỷ lệ rất ít.” Những phân tích trong bài này phù hợp với nhận xét đó. Phân nửa các bộ trưởng (hay quan chức tương đương bộ trưởng) Việt Nam có bằng tiến sĩ, và con số này cao hơn so với chính phủ Mĩ và Úc, hai nước mà trình độ dân trí cao hơn Việt Nam. Tôi chưa có bằng chứng, nhưng tôi nghi rằng tỉ lệ tiến sĩ trong chính phủ Việt Nam có lẽ là cao nhất thế giới.

Ở Việt Nam đang tồn tại một nghịch lí lạ lùng : muốn đề bạt chức vụ nào đó thì phải có bằng cấp tương xứng. Chẳng hạn như điều kiện tiên quyết cho chức vụ giám đốc sở thì phải là bằng cử nhân hay thạc sĩ, trưởng khoa một bộ môn trong bệnh viện thì cần phải có bằng tiến sĩ và … đảng viên. Do đó, người ta đổ xô nhau đi “làm” tiến sĩ, tìm mọi cách và mọi giá để có một cái bằng tiến sĩ chỉ để thăng quan tiến chức, hơn là phục vụ cho khoa học. Chú ý là người ta “làm” tiến sĩ, chứ không hẳn là “học” tiến sĩ. Động từ “làm” ở đây bao gồm nhiều hành động, kể cả những việc làm có thể xem là tiêu cực.

Tuy nhiên, qui định bằng cấp và chức vụ đó là ở cấp địa phương và cơ sở, còn đối với các cấp bộ trưởng hay tương đương thì tôi nghĩ không có qui định bằng cấp càng cao mới được bổ nhiệm chức cao, vì ở cấp này, vị thế và thành tích chính trị đóng vai trò quan trọng hơn là bằng cấp. Nhưng trước khi làm bộ trưởng thì các vị này cũng đã trải qua các chức vụ thấp hơn, nên nhu cầu bằng cấp lúc đó ắt phải có. Điều này có nghĩa là phong trào tiến sĩ và chức vụ đã xảy ra trước đây, và bây giờ chính là giai đoạn gặt hái thành quả. Hiểu theo nghĩa này, tôi nghĩ trong tương lai chúng ta sẽ còn thấy nhiều tiến sĩ trong chính phủ hơn nữa. Nhiệm kì tới biết đâu con số bộ trưởng có bằng tiến sĩ không phải là 50% như bây giờ mà có thể là 2/3.

Tiến sĩ là học vị cao nhất trong hệ thống bằng cấp đại học. Thông thường, con số người có bằng tiến sĩ thấp hơn con số thạc sĩ, và số người với bằng thạc sĩ ít hơn số người với bằng cử nhân. Đó là xu hướng mà chúng ta thấy ở Mĩ và Úc. Ở Úc, chỉ có 1 bộ trưởng duy nhất có bằng tiến sĩ. Nhưng trong chính phủ Việt Nam thì ngược lại: số người có bằng tiến sĩ nhiều hơn số người có bằng cử nhân và thạc sĩ. Đó là một sự phân bố bất bình thường. Sự bất bình thường đó đặt ra câu hỏi có phải bằng tiến sĩ ở Việt Nam quá dễ “lấy”. Tôi không có câu trả lời cho câu hỏi này, nhưng những lem nhem và bất cập về cách đào tạo tiến sĩ ở trong nước mà báo chí phản ảnh trong thời gian qua làm cho xã hội đánh một dấu hỏi lớn.

Thật ra, nhìn một cách tích cực hơn, chính phủ có nhiều tiến sĩ là một tín hiệu tốt. Con số 50% bộ trưởng có bằng tiến sĩ cho thấy nước ta đúng là nước có trình độ học vấn cao, có lẽ cao nhất thế giới. Phần lớn các tiến sĩ bộ trưởng học về kinh tế, và điều này nói lên rằng chúng ta có thể tin tưởng rằng kinh tế VN sẽ phát triển vượt bực nay mai. Trong khi chưa có bằng chứng cho phát biểu đó, chúng ta hãy cứ tin và hi vọng vậy.

Ở các nước tiên tiến, phần lớn tiến sĩ làm việc trong các đại học và trung tâm nghiên cứu, với một thiểu số nhỏ làm việc trong ngành quản lí. Ở Việt Nam thì ngược lại: phần lớn tiến sĩ làm trong ngành quản lí hành chính, rất ít người giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học. Thật vậy, chỉ có khoảng ~20% giảng viên trong các đại học lớn ở VN có văn bằng tiến sĩ. Trong khi đó, 50% bộ trưởng VN có bằng tiến sĩ. Một câu hỏi khác cũng cần đặt ra là chính phủ có cần nhiều tiến sĩ như thế hay không trong khi các trường đại học rất thiếu giảng viên ở trình độ tiến sĩ?

GS TS Nguyễn Văn Tuấn

Viện Nghiên cứu Y khoa Garvan, Sydney, Australia

Trình độ học vấn, tuổi tác và giới tính của nội các chính phủ Na Uy

Bài này của tác giả Nguyễn Quang Minh gửi và nhờ tôi đăng hộ để bạn đọc có thêm thông tin đa chiều. Thông tin ở đây là câu chuyện về học vấn của các bộ trưởng bên Na Uy. Tác giả là người đã định cư ở Na Uy trên 30 năm, hiện đang làm trong lĩnh vực tài chính dầu khí và kinh tế, nên cũng biết tình hình bên đó.

Tôi cũng có vài "connection" với Na Uy và nghe nói nhiều về xứ sở tuyệt vời này. Lab tôi từng có một chị postdoc người Na Uy làm việc 1 năm, chị ấy đã về nước, nhưng sẽ quay lại trong năm nay để theo đuổi một dự án về vitamin D. Một bác sĩ sản khoa khác có nghiên cứu về xương cũng từ Na Uy sang Úc và làm với tôi trong vài dự án di truyền học. Mới tuần trước, một anh bạn đang làm ở Đại học Oslo rủ đi ăn tối, và anh cho biết đang hướng dẫn một bác sĩ VN họ Nguyễn ở Na Uy học tiến sĩ. Nghe lời mấy người này kể tôi tưởng tượng Na Uy là xứ ... xã hội chủ nghĩa, có vẻ chính phủ bên đó chăm sóc dân họ còn hay hơn so với Úc!

Tuy nhiên, nhiều người bạn Thụy Điển của tôi cho rằng Na Uy là xứ rất giàu, nhưng rất ... hà tiện. Một anh bạn bác sĩ giải phẫu người Thụy Điển từng qua đây làm postdoc trong lab tôi 1 năm nói đại ý là: " Na Uy là nước rất giàu vì họ bán dầu hỏa, nhưng họ rất hà tiện” Anh ta còn nói cái cầu hay đường nào đó nối liền 2 nước, chủ yếu là Thụy Điển chi tiền, chứ chính phủ Na Uy chi rất ít. Thấy tôi bán tín bán nghi, anh ấy khuyên tôi thử qua đó một lần sẽ thấy đường xá Na Uy tồi lắm, vì chính phủ hà tiện. Chữ hà tiện được lặp đi lặp lại mãi làm tôi nghĩ đến Na Uy là nghĩ đến ... hà tiện. Nay đọc bài của anh Minh thấy nói bộ trưởng đi xe đạp thì tôi thấy chắc họ hà tiện thật, nhưng tôi rất nể phục ông bộ trưởng này. Người ta giàu mà còn tiết kiệm thế, còn ta thì nghèo mà đòi chơi sang! Ước gì các bộ trưởng bên ta cũng như vậy nhỉ? Nhưng thôi, đây là chuyện dài nhiều tập. Bây giờ tôi mời các bạn đọc bài của tác giả Nguyễn Quang Minh. Xin cám ơn anh Nguyễn Quang Minh.

Xin được cung cấp một số chi tiết lý thú về chính phủ Na Uy hiện nay, để bạn đọc có cái nhìn rộng hơn mà so sánh.

Na Uy là một nước quân chủ lập hiến. Dân số 4,5 triệu. Vua đại diện và biểu tượng cho uy quyền tối cao của quốc gia. Nhà vua không tham chính. Na Uy là thành viên khối NATO nhưng không gia nhập Liên Minh Âu Châu, EU. Chính phủ Na Uy hiện nay điều hành bởi thủ tướng Jens Stoltenberg. Đây là nội các thứ ba của ông (nhiệm kỳ 2009-2013), gồm liên minh của 3 đảng Lao Động (AP), Xã Hội Cánh Tả (SV) và Trung Tâm (SP, thường đuợc hiểu là đảng của giới nông dân). Do đó, báo chí thường gọi là chính phủ Đỏ-Xanh (xanh lá cây, red-green government).

Nội các của thủ tướng Jens Stoltenberg gồm 20 bộ, chia đều 10 phái nam và 10 nữ. Cao tuổi nhất 68 và trẻ nhất 33.

Năm 2007, lần đầu tiên trong lịch sử Na Uy, phụ nữ chiếm đa số trong nội các chính phủ, 10 trên 19 ( Nội các Jens Stoltenberg 2005-2009 ).

Điều thú vị thứ nhất là không có ai có bằng tiến sĩ, 1 thạc sĩ (nữ), hơn 2/3 cử nhân và 2 bộ trưởng bậc phổ thông trung học, 2 bộ trưởng chưa xong đại học, chỉ có vài chứng chỉ vắt vai.

Điều thú vị thứ hai là bộ trưởng quốc phòng lại giao cho phái nữ, bà Grete Faremo, nguyên là một luật sư. Nhiệm kỳ trước, cũng nội các Jens Stoltenberg, tiền nhiệm bộ này cũng do phái nữ. Bà Anne-Grete Strøm-Erichsen, nguyên là kỹ sư vi tính, hiện nay chuyển sang bộ Y tế và An Sinh.

Điều thú vị thứ ba về ông bộ trưởng bộ Viện Trợ và Môi Trường, Erik Solhiem, năm nay 55 tuổi. Ông Erik đã từng là chủ tịch đảng SV năm 32 tuỗi (1987). Hình ảnh ấn tượng về ông Erik là sự đơn giản chân phương. Lưng đeo ba lô, tay trái đẩy xe em bé phía trước, tay phải dắt con, trên đường về từ nhà trẻ, vừa đi vừa trả lời phỏng vấn báo chí đài truyền hình. Ông Erik đã từng là bộ trưởng Viện Trợ và Phát Triển Quốc tế qua nhiều nội các. Ông Erik ăn mặc đơn giản, ít khi diện complet cravat như trong hội nghị thế giới về khí hậu Copenhagen vừa qua.

Điều lý thú thứ tư, bộ trưởng Tài Chính, ông Sigbjørn Johnsen, năm nay 60. Năm 1990, lúc đó 40 tuổi, ông đã là bộ trưởng Tài Chính trong nội các của bà Gro Harlem. Ông Sigbjørn chỉ có trung cấp tài chính-kế toán.

Bộ trưởng Tài Chính nhiệm kỳ trước là bà Kristin Halvorsen, 50 tuổi, có vài chứng chỉ về sư phạm xã hội và phạm tội học, chưa có văn bằng tốt nghiệp đại học. Hiện nay, bà Kristin nắm giữ bộ Trung Tiểu Học và Tay Nghề (dịch đúng từ, là bộ Kiến Thức, gồm bậc mẫu giáo, trung tiểu học và giáo dục tay nghề chuyên môn). Bộ này là phần tách ra từ bộ Giáo Dục trước đây. Bà là chủ tịch đảng Xã Hội Cánh Tả (SV), từ khi 37 tuổi.

Hiện nay có 2 bộ phụ trách về giáo dục. Bộ Trung Tiểu Học & Tay Nghề và Bộ Đại học và Nghiên cứu.

Bộ Đại Học và Nghiên Cứu cũng do phái nữ, bà Tora Aasland, có bằng cử nhân xã hội học, từng là phó chủ tịch QH năm 47 tuổi. Bà Tora là người lớn tuổi nhất nội các hiện nay, sinh năm 1942, trong khi bộ trưởng trẻ nhất là Audun Lysbakken, 33 tuổi. Ông Audun Lysbakken được bầu vào QH khi mới có 24 tuổi (2001).

Bộ Công Thương do ông Trond Giske, 44 tuổi, đã từng là bộ truởng Văn Hóa & Giáo Dục dưới nội các của chính phủ Jens Stoltenberg (nhiệm kỳ 2000-2001), khi mới có 34 tuổi. Đại biểu QH năm 31 tuổi. Có bằng cử nhân.

Bộ Giao Thông hiện nay cũng do phụ nữ nắm, bà Magnhild Kleppa, 62 tuổi. Bà Magnhild trước đây là bộ trưởng Xã Hội, năm 1997, có bằng cao đẳng sư phạm, xuất thân từ cô giáo cấp II tỉnh lẻ.

Bộ Dầu Hỏa và Năng Lượng do ông Terje Riss-Johansen, 42 tuổi, đã từng làm bộ trưởng Nông Nghiệp năm 37 tuổi. Ông tốt nghiệp trung cấp nông lâm, sau đó cao đẳng nông lâm.

Điều lý thú thứ năm. Bộ Văn Hóa do bà Anniken Huitfeldt, 41 tuổi, đã là bộ trưởng lúc 38 tuổi. Bà Annikken là một trong 4 nữ bộ trưởng, thứ trưởng cùng sinh con khi đang tại chức trong nội các trước của Jens Stoltenberg.

Điều lý thú thứ sáu về thủ tướng Jens Stoltenberg, 51 tuổi. Tốt nghiệp kinh tế vĩ mô đại học Oslo. Làm thứ trưởng bộ Môi Trường năm 31 tuổi (1990), bộ trưởng Công Nghệ và Năng Lượng năm 34 tuổi (1993), ông trở thành thủ tướng năm 2000, khi vừa bước qua tuổi tam thập như lập, 41 tuổi. Khi không còn làm thủ tướng, trở về QH làm việc và với cương vị chủ tịch đảng Lao Động (AP, đảng lớn nhất, khuynh huớng xã hội và từ sau thế chiến thứ II, đóng vai trò chủ chốt trong việc hình thành Na Uy thành một quốc gia có mô hình an sinh xã hội mẫu mực nhất thế giới như hiện nay) ông Jens vẫn thường đi làm bằng xe lửa, xe điện…Mùa hè có hôm ông đi xe đạp. Tôi nghĩ là không có một lô an ninh bảo vệ chạy theo như bên Mỹ.

Ông là một người có cung cách bình dân, thường xuyên tranh luận trên TV về đủ mọi đề tài, với đủ mọi giới, viết facebbook , có webside riêng http://www.jensstoltenberg.no/ .

Thủ tuớng và các bộ trưởng thường xuyên tham dự các buổi tranh luận đa phuơng (báo chí, đảng đối lập và các tổ chức nghề nghiệp đối trọng hay giới chuyên môn) gay gắt trên TV về những vấn đề thời sự nóng bỏng. Qua thăm dò dư luận, cuộc bầu cử QH nhiêm kỳ 2009-2013 vừa qua, người ta bầu cho đảng Lao Động, đơn vị Olso nơi ông ra tranh cử, vỉ uy tín cá nhân của ông nhiều hơn là chính sách của đảng.

Tôi không có tài liệu thống kê hay kết luận khoa học nào cho rằng thành phần bộ trưởng có bằng cấp cao như tiến sĩ, thạc sĩ , già trẻ hay đa số nam giới sẽ điều hành đất nuớc giỏi hơn.

Đại đa số các bộ trưởng của Na Uy khởi nghiệp chính trị từ lúc còn trẻ, thành phần ưu tú từ tổ chức thanh niên của đảng.

Na Uy có 6 đảng lớn, trong đó phụ nữ giữ vai trò lãnh đạo 4 đảng.

Phần đông có kinh nghiệm sinh hoạt nghị trường truớc khi làm bộ trưởng. Vì vậy, các bộ trưởng có khả năng đối thoại chuẩn mực, tranh luận và hòa giải rất tốt. Họ sinh hoạt và tiếp xúc với mọi giới một cách bình dân, phong cách đơn giản như trong sinh hoạt đời thường.

Điểm nổi bật họ có khuynh huớng dân chủ xã hội và công bằng xã hội qua việc điều chỉnh chính sách thuế và an sinh hàng năm. Dù không có được học vị tiến sĩ, thạc sĩ như phần đông bộ, thứ trưởng Việt Nam, nhưng có có tầm suy nghĩ chiến luợc khá khôn ngoan về phát triển đất nước và ổn định “xã hội an sinh”, vốn là một gánh nặng chi phí công, dù chỉ có 4,5 triệu dân. Xin dẫn chứng thí dụ, để các nhà quyết định chính sách vĩ mô Việt Nam có thêm một thông tin cụ thể khác về thế nào và làm sao khai thác và xử dụng tài nguyên đất nuớc ( dầu khí, than, bauxite, rừng… ).

Na Uy là một nuớc là một nuớc sản xuất dầu khí khoảng gần 40 năm trở lại đây, đi trước Việt Nam khoảng vài năm. Ngân sách hàng năm tùy thuộc vào các khoản thu từ hoạt động dầu khi chiếm khoảng 30 % và tổng sản lượng quốc gia trên 35%. Hoạt đông dầu khí có một số nét nổi bật: huy động vốn đầu tư rất lớn, trình độ khoa học kỹ thuật rất cao, giá dầu thường xuyên bất ổn và tài nguyên cạn kiệt sau khi khai thác. Để giải quyết hai vấn nạn sau, họ hình thành những hướng đi sau đây.

Duy trì mức hoạt động thăm dò, phát triển mỏ và sản xuất dầu khí ở mức độ vừa phải, để có “của hồi môn” dành cho thế hệ mai sau. Tiềm năng dầu khí của Na Uy hiện nay còn rất lớn.

Mười mấy năm trở lại đây, cán cân thương mại quốc tế của Na Uy bội thu. Ngoài khoản thuế từ dầu khí (thí dụ năm 2008, chiếm 57% thu về cho ngân sách là 245 tỷ đồng norsk kroner (NOK), tương đuơng 40 tỷ USD, nhà nuớc còn tham gia vốn trực tiếp (the Stat’s direct financial interest, SDFI, thiết lập vào năm 1985) vào hoạt động dầu khí. Sự tham gia trực tiếp đã mang lại một khoản thu khổng lồ nữa, gọi là “lãi dầu khí”. Nhà nuớc Na Uy không đụng đến cái khoản lãi này, mà họ tung ra đầu tư trên thị trường tài chính thế giới. Xin nói thêm, tỷ lệ thất nghiệp tại Na Uy thấp, duy trì dưới 1%. Tình hình nhân dụng gần như bão hòa và cơ cấu ngành nghề cân đối, không thể dùng nó vào tái đầu tư nội địa.

Họ lập ra một ủy ban chuyên trách “cái quỹ” này. Truớc đây gọi là Quỹ Dầu Khí, Petroleum fund, bây giờ gọi là Pension fund, Quỹ Hưu Bổng-Nước Ngoài (để phân biệt Quỹ Hưu Bổng nội địa), cho hợp với thông lệ tài chính quốc tế. Có mấy lý do chính khi lập ra cái Quỹ này.

Tiền thu về từ họat động dầu khí không thuộc riêng về thế hệ hiên tại, mà thuộc về nhiều thế hệ mai sau. Thế hệ cha anh có trách nhiệm quản lý “cái đồng tiền từ vàng đen”cho thế hệ mai sau vì tài nguyên quốc gia dần dần thu hẹp do việc khai thác. Quỹ Dầu Khí được hiểu như một hầu bao an toàn, bảo đảm duy trì xã hội an sinh (welfare society) và ổn định đời sống kinh tế quốc gia khi mà giá dầu khí xuống quá thấp như đã từng xảy ra.

Năm 1996, Na Uy lập ra Quỹ Dầu Khí. Lúc đó, giá trị chia cho mỗi người dân đuợc 10.000 NOK ( tương đuơng 1700 USD ) với dân số 4,5 triệu.

Sau 10 năm, giá trị Quỹ lên đến 1660 tỷ NOK, vị chi 360000 NOK đầu người ( tương đương 60000 USD ). Thời điểm này, giá trị Quỹ Hưu Bổng-Nuớc Ngoài của Na Uy lớn nhất Âu Châu và Mỹ, vượt qua Quỹ Hưu Bổng ABP dành cho giáo chức & công chức của Hòa Lan và Quỹ Hưu Bổng dành cho công chức tiểu bang California, Mỹ, theo báo cáo của công ty tư vấn Watson Wyatt, London, Anh Quốc. Giá trị Quỹ Hưu Bổng dành cho công chức của Nhật được đánh giá là lớn nhất thế giới, 7000 tỷ NOK ( khoảng 1116 tỷ USD ) nhưng nếu tính theo đầu người, Na Uy vẫn cao hơn.

Dự báo vào cuối năm 2009, giá trị tăng lên đến 3000 tỷ NOK ( = 500 tỷ USD ), trong đó, chỉ riêng năm nay, quỹ mang lại lợi nhuận là 529 tỷ NOK ( = 88 tỷ USD ). Gía trị Quỹ chia đầu người là 670000 NOK ( = 110000 USD ).

Hiện nay, tại Việt Nam đang bàn tới việc lập Quỹ Bình Ổn Lúa Gạo. Đây là một chiến luợc khôn ngoan, cần thiết cho một nuớc xuất khẩu gạo lớn nhì thế giới.

Truớc khi chấm dứt bài viết, tôi xin phép đuợc tản mạn hai câu chuyện duới đây, tuởng chừng chúng rời rạc và nghịch lý nhưng thực ra là một.

Câu chuyện thứ nhất

Thực ra, cũng có bộ trưởng có học vị tiến sĩ trong nội các trước đây không lâu. Ông tên Victor D. Norman, sinh năm 1946. Tốt nghiệp BA ưu hạng và MA đại học Yale cùng năm 1969. Ông lấy Ph.D. tại Massachusetts Institute of Technology năm 26 tuổi (1972). Ông là một giáo sư kinh tế danh tiếng và nguyên là hiệu trưởng một trường kinh tế cũng danh tiếng nhất Na Uy. Ông là tác giả nhiều tài liệu giá trị và sách vở về kinh tế. Chưa từng tham gia nghị trường. Ông phụ trách bộ Lao Động nhưng điều hành không nổi bật như ông dạy học. Ông xin từ chức giữa nhiêm kỳ vì một chuyện cỏn con. Số là, ông quên hẳn bài học Tài Chính Công nhập môn. Dư luận báo chí và phe đối lập phê phán văn phòng Bộ của ông chi tiêu hoang phí. Hóa đơn dành cho tiếp tân, ăn uống đắt tiền tại các nhà hành sang trọng quá mức, trong khi chi phí tiếp tân bộ Ngoại Giao chỉ bằng 20%. Thêm một “tai nạn” nhỏ khác, có bé xé cho to. Thú tiêu khiển của ông là chơi đàn piano. Nhà của ông ở thành phố khác, khi lên Oslo làm việc, ông muốn có 1 cây đàn piano. Thì mua, tiền ngân sách, tiêu chuẩn dành cho bộ trưởng. Nhà công sở và đồ đạc trong nhà thuộc về công sở, đàn piano cũng chẳng thuộc về cá nhân ông. Bộ trưởng này đi thì nhiệm kỳ khác, bộ trưởng khác hưởng thôi. Họa vô đơn chí, báo chí và phe đối lập lại đè ông ra “cạo”. Sự nghiệp chính trị của ông gãy cánh giữa đuờng. Ở khu vực kinh tế tư nhân, chuyện ăn uống, tiếp tân sang trọng hay piano thì chẳng có vần đề. Của đáng tội, tiền ngân sách nhà nuớc là tiền thuế của dân.

Câu chuyên thứ hai

Kể về một ông bộ trưởng mà tôi có cơ may để ý. Câu chuyện có vẻ vụn vặt.

Ông bộ trưởng này từng nắm bộ Tài Chính (1986), rồi bộ Nội Vụ (1992). Ông Gunnar Berge. Nay ông đã về hưu rồi, năm nay chẵn 70. Đây là những bộ “nặng ký” nhưng ông ấy chỉ học đến thợ. Thợ hàn. Hành nghề hẳn hoi từ năm 17 tuổi đến 26 tuổi (1957-1966). Mới 17 tuổi mà đã đi “học” làm thợ, có lẽ ông ấy chưa tốt nghiệp trung học phổ thông đâu. Ấy là tôi đoán mò như thế vì truớc năm 1990, trẻ em Na Uy 7 tuổi bắt đầu lớp 1, hệ 12 năm. Từ năm 1967, ông họat động toàn thời trong phong trào nghiệp đoàn và chính trị cho đảng Lao Động (AP) tại địa phương. Ông được bầu vào QH năm 1969, lúc đấy 29 tuổi. Ông Gunnar đuợc đánh giá là thành công và đuợc kính nể của chính giới. Làm phát ngôn viên chính thức của đảng về chính sách tài chính, ông Gunnar có ảnh huởng khá mạnh trong đảng Lao Động, cánh tay phải của bà thủ tướng Gro Harlem.

Khoảng đầu những năm 1990, thỉnh thoảng tôi có đi chung chuyến bay. Vì ông ở cùng một tỉnh lẻ và tôi có công việc tại Oslo. Đầu tuần “bay” lên thủ đô. Thứ sáu, cuối tuần “bay” về. Tôi thấy ông đứng xếp hàng phía sau truớc gate để chờ vào máy bay như mọi người. Cung cách bình thường, không thấy dáng vẻ một quan chức cao cấp đi công tác. Sở dĩ tôi để ý đến ông vì thấy khuôn mặt quen xuất hiện thuờng xuyên trên TV. Dạo đó, Na Uy hủy bỏ ghế business cho tất cả chuyến bay nội địa, ai lên trước chọn trước, chứ không phân số ghế như bây giờ. Tôi thấy ông bao giờ cũng ngồi hàng ghế sau và là một trong những hành khách ra sau cùng. Có hôm thấy vợ ông ấy ra đón. Nhiều lần ông ấy đón xe bus về. Rất hiếm đi taxi. Thỉnh thoảng cuối tuần gặp ông ấy trong cùng siêu thị. Ông ấy cũng đẩy xe ngó ngó, xem xem, chọn chọn các món hàng, tay thì cầm tờ giấy listing các món hàng ( chắc vợ ông dặn mua như phần đông đàn ông khi chợ một mình ). Sau một thời gian ông tuyên bố rũ áo từ quan, bỏ chốn kinh kỳ hoành tráng về tỉnh nhà vì muốn dành nhiều thời gian gần gũi cho gia đình. Ông được chỉ định làm Tổng Giám Đốc Tổng Nha Dầu Khí (NPD). Cơ quan Tổng Nha Dầu Khí (NPD) đóng tại tỉnh nhà. Ông còn kiêm nhiệm chủ tịch Ủy Ban Phát Giải Hòa Bình Nobel. Ông đã trao giải Hòa Bình Nobel cho Tổng Thống Hàn Quốc Kim Đại Trọng năm 2000, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, ông Kofi Annen và chủ tịch Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, ông Han Seung-soo năm 2001 và cựu Tổng Thống Mỹ Jimmy Carter năm 2002. Thỉnh thoảng có việc đến Tổng Nha Dầu Khí (NPD), tôi thấy ông đứng xắp hàng vào cantin ăn trưa, tự chọn thức ăn, tự lấy café, sữa, trả tiền…rồi bưng khay tìm ghế trống …rồi tự kéo nghế và rồi tự dọn khay….bình thuờng. Tại Na Uy, ai cũng như ai, về khoản này. Năm 2007, ông về hưu, dù ông có thế làm việc đến 70 ( độ tuổi 62 có thể về hưu ). Vài năm gần đây, xuân thu nhị kỳ, tôi bất chợt nhận ra ông Gunnar trong siêu thị, cũng vẫn đẩy xe ngó ngó, xem xem, chọn chọn các món hàng nhưng với động tác chậm rãi hơn.

Nguyễn Quang Minh

(*) Tỷ giá 1 USD = 6 NOK vào thời điểm hiện nay, để độc giả tiện so sánh.